Công văn số 17165/BTC-VP về việc trả lời kiến nghị của Đoàn đại biểu quốc hội do Bộ Tài chính ban hành

Số hiệu 17165/BTC-VP
Ngày ban hành 17/12/2007
Ngày có hiệu lực 17/12/2007
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Bộ Tài chính
Người ký Vũ Văn Ninh
Lĩnh vực Đầu tư,Thuế - Phí - Lệ Phí,Bất động sản

BỘ TÀI CHÍNH
-----

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------

Số: 17165/BTC-VP
V/v trả lời kiến nghị của Đoàn đại biểu quốc hội

Hà Nội, ngày 17 tháng 12 năm 2007

 

Kính gửi: Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương

Bộ Tài chính nhận được công văn số 76/ĐBQH ngày 5/11/2007 của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương kiến nghị về chính sách, pháp luật đối với lĩnh vực thuế. Bộ Tài chính xin được trả lời kiến nghị của Quý Đoàn như sau:

1. Về hướng dẫn chính sách thuế đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài:

Tại Điều 13 của Luật đầu tư quy định nhà đầu tư được lựa chọn lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư, phương thức huy động vốn, địa bàn, quy mô đầu tư, đối tác đầu tư và thời hạn hoạt động của dự án.

Tại Điều 27 của Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài quy định nhà đầu tư được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp như dự án đầu tư trong nước (nếu dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư) đối với phần thu nhập từ đầu tư trực tiếp nước ngoài; không bị đánh thuế trùng (kể cả đầu tư vào nước đã ký hiệp định tránh đánh thuế trùng hoặc đầu tư vào nước chưa ký hiệp định tránh đánh thuế trùng với Việt Nam); được miễn thuế xuất khẩu theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với tài sản mang ra nước ngoài để đầu tư; được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% đối với hàng hoá xuất khẩu để thực hiện dự án đầu tư tại nước ngoài.

Các ưu đãi về thuế đối với nhà đầu tư ra nước ngoài nêu trên đã được hướng dẫn tại các Thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu, nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng.

2. Về thanh tra thuế:

Tại Khoản 1, Điều 38 Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Quản lý thuế quy định: "Khi thực hiện tranh tra thuế, đoàn thanh tra thuế phải có tối thiểu một thành viên là tranh tra viên thuế".

Tại Khoản 2, Điều 47 Chương III Nghị định số 85/2007/NĐ-CP nêu trên quy định: "Trong thời gian từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2008, chuyên viên chính, kiểm soát viên chính của cơ quan quản lý thuế được thực hiện thanh tra thuế".

Căn cứ quy định trên: Từ ngày 1/7/2007 đến hết ngày 31/12/2008, khi thực hiện thanh tra thuế, Đoàn thanh tra phải có tối thiểu một thành viên là chuyên viên chính, kiểm soát viên chính.

Hàng năm Bộ Tài chính đều phối hợp với Bộ Nội vụ tổ chức thi ngạch chuyên viên chính, kiểm soát viên chính cho công chức thuế, tuy nhiên số lượng chuyên viên chính, kiểm soát viên chính hiện có cũng chưa đáp ứng đủ so với yêu cầu về quản lý thuế, thanh tra thuế. Bộ Tài chính xin ghi nhận và sẽ tiếp tục đào tạo, tăng cường tổ chức thi ngạch chuyên viên chính, kiểm soát viên chính để đảm bảo đủ nguồn lực thực hiện công tác thanh tra thuế.

Ngoài ra, hiện nay Bộ Tài chính đang phối hợp với Thanh tra Chính phủ, Bộ Nội vụ xây dựng tiêu chuẩn thanh tra viên thuế và trong thời gian tới sẽ sớm tổ chức thi cấp thẻ "thanh tra viên thuế" để phục vụ công tác thanh tra thuế.

3. Về người nộp thuế được nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước tại bất kỳ Kho bạc nào trong hệ thống Kho bạc Nhà nước:

Theo quy định tại Điều 44 của Luật Quản lý thuế thì người nộp thuế có thể nộp thuế tại: Kho bạc Nhà nước; cơ quan quản lý thuế nơi tiếp nhận hồ sơ khai thuế; thông qua tổ chức được cơ quan quản lý thuế uỷ nhiệm thu thuế; thông qua ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác và tổ chức dịch vụ theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, trên thực tế hệ thống công nghệ thông tin nối mạng giữa cơ quan thuế và cơ quan kho bạc chưa đáp ứng được nhu cầu này trong phạm vi cả nước. Trong thời gian tới, sau khi nâng cấp và hoàn chỉnh hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho quản lý thì người nộp thuế có thể nộp thuế tại bất cứ kho bạc nào cũng như các địa Điểm nộp thuế như nêu trên trong phạm vi cả nước.

4. Tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số Điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần có quy định: "Hộ gia đình, cá nhân được chuyển Mục đích sử dụng từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư nhưng không được công nhận là đất ở hoặc chuyển Mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất ở phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 6 Nghị định này và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 8 của Nghị định này, nếu chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước thì được ghi nợ số tiền sử dụng đất phải nộp trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; số tiền sử dụng đất ghi nợ được tính theo giá đất tại thời Điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất".

Tuy nhiên, trên thực tế, đa số người được nợ tiền sử dụng đất có nhu cầu trả nợ dần vì không đủ khả năng tài chính để trả nợ tiền sử dụng đất một lần. Đề nghị nên có quy định về việc trả nợ dàn đối với hộ gia đình, cá nhân không đủ khả năng trả nợ dứt Điểm một lần.

Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 của Nghị định trên có một số trường hợp như sau: "Hộ gia đình ông A có xin chuyển Mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở với diện tích 300m2 và ghi nợ tiền sử dụng đất là 300 triệu đồng".

Sau vài tháng, ông A có nhu cầu chuyển nhượn 100m2/300m2 đất với số tiền là 180 triệu đồng để trang trải việc gia đình. Tuy nhiên, đời sống ông A còn khó khăn nhưng ông A vẫn phải thanh toán hết số tiền sử dụng đất ghi nợ (300m2) theo thông báo của cơ quan Tài nguyên và Môi trường. Ông A đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho ông được trả nợ tiền sử dụng đất tương ứng với số diện tích 100m2 mà ông chuyển nhượng có được không? Việc đề nghị được thanh toán ghi nợ tiền sử dụng đất nói trên hiện nay ở địa phương gặp rất nhiều.

Đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, quy định chính sách trả nợ tiền sử dụng đất phù hợp đối tượng thanh toán nợ tiền sử dụng đất:

- Về việc ghi nợ tiền sử dụng đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân nếu chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ và hướng dẫn tại Điểm 4 Thông tư số 70/2006/TT-BTC ngày 02/8/2006 của Bộ Tài chính thì số tiền ghi nợ được tính theo giá đất tại thời Điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và khi hộ gia đình, cá nhân thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất hoặc được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thì phải nộp cho Nhà nước số tiền còn nợ. Từ khi Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai có hiệu lực thi hành thì việc ghi nợ tiền sử dụng đất đã có sự Điều chỉnh cụ thể như sau:

"Điều 5. Ghi nợ tiền sử dụng đất

1. Hộ gia đình, cá nhân chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số Điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần (gọi là Nghị định số 187/2004/NĐ-CP) và hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất tái định cư mà có nguyện vọng ghi nợ thì được ghi "nợ tiền sử dụng đất" trên Giấy chứng nhận sau khi có đơn đề nghị được ghi nợ kèm theo hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận hoặc hồ sơ xin chuyển Mục đích sử dụng đất hoặc hồ sơ giao đất tái định cư. Khi thanh toán nợ, người sử dụng phải trả theo giá đất tại thời Điểm trả nợ và được xoá "nợ tiền sử dụng đất" đã ghi trên Giấy chứng nhận.

2. Khi thanh toán nợ tiền sử dụng đất theo quy định tại Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất (gọi là Nghị định số 198/2004/NĐ-CP) thì người sử dụng đất trả nợ tiền sử dụng đất theo giá đất tại thời Điểm cấp Giấy chứng nhận; khi thanh toán nợ tiên sử dụng đất theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 của Nghị định số 17/2006/NĐ-CP đối với trường hợp đã ghi nợ trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì người sử dụng đất trả nợ tiền sử dụng đất theo số tiền nợ đã ghi trên Giấy chứng nhận”.

Như vậy, theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP nêu trên đã quy định cụ thể việc thanh toán tiền sử dụng đất được ghi nợ. Tuy nhiên, trong thực tế có trường hợp có nhu cầu trả nợ dần vì không đủ khả năng tài chính trả nợ một lần hoặc trả nợ một phần theo diện tích sử dụng đất khi có giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bộ Tài chính xin ghi nhận để phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp nghiên cứu giải pháp và báo cáo Chính phủ tiếp tục hoàn thiện chính sách ghi nợ và thu nợ tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân.

5. Tại Khoản 1 Điều 4Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai có quy định: "Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất thì nghĩa vụ tài chính được xác định theo chính sách và giá đất tại thời Điểm có quyết định giao đất hoặc cho thuê đất; trường hợp thời Điểm bàn giao đất không đúng với thời Điểm ghi trong quyết định giao đất, cho thuê đất thì nghĩa vụ tài chính được xác định theo chính sách và giá đất tại thời Điểm bàn giao đất thực tế".

Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định cụ thể, rõ ràng về các loại thủ tục, giấy tờ làm căn cứ để xác định thời Điểm bàn giao đất thực tế, làm cơ sở xác định nghĩa vụ tài chính theo quy định trên. Do đó, đề nghị sớm ban hành văn bản quy định cụ thể các loại thủ tục, giấy tờ nói trên để việc thực hiện không gặp khó khăn.

Về việc xác định thời Điểm bàn giao đất thực tế tại một số văn bản quy định cụ thể như sau:

[...]