BỘ TÀI CHÍNH
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 10305/BTC-TCT
V/v trả lời kiến nghị của KTNN
|
Hà Nội, ngày
01 tháng 8 năm 2012
|
Kính gửi:
Kiểm toán Nhà nước
Bộ Tài chính nhận được công văn số 521/KTNN-CNVI
ngày 31/5/2012 của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) về việc đề nghị giải đáp một số nội
dung áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, văn bản cá biệt do Bộ Tài chính ban
hành. Về vấn đề này Bộ Tài chính có ý kiến như sau:
1. Về việc xử lý tài chính, tính thuế và hạch
toán kế toán đối với trường hợp giảm trừ phần thù lao đại lý khi xác định giá
tính thuế, phản ánh giảm trừ trên hóa đơn bán hàng theo quy định tại Thông tư số
129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 của Bộ Tài chính.
Tại Khoản 1 Điều 169, Luật
Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005 quy định:
"1. Đại lý bao tiêu là hình thức đại lý mà
bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn vẹn một khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng
đầy đủ một dịch vụ cho bên giao đại lý"
Tại Điều 171, Luật Thương mại số
36/2005/QH11 ngày ngày 14/6/2005 quy định:
"Điều 171. Thù lao đại lý
1. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, thù lao đại
lý được trả cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá..."
Tại điểm 1.1, Mục II Phần B
Thông tư số 129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 của Bộ Tài chính quy định giá
tính thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ trong một số trường hợp có hướng
dẫn:
"1.1. Đối với hàng hóa, dịch vụ do cơ sở sản
xuất, kinh doanh bán ra là giá bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hóa, dịch vụ
chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa
có thuế GTGT.
Giá tính thuế đối với các loại hàng hóa, dịch vụ
bao gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá hàng hóa, dịch vụ mà cơ sở
kinh doanh được hưởng, trừ các khoản phụ thu và phí cơ sở kinh doanh phải nộp
NSNN. Trường hợp cơ sở kinh doanh áp dụng hình thức giảm giá bán, chiết khấu
thương mại dành cho khách hàng (nếu có) thì giá tính thuế GTGT là giá bán đã giảm,
đã chiết khấu thương mại dành cho khách hàng."
Theo báo cáo của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Tập
đoàn) thì về cơ bản các đơn vị thành viên thuộc Tập đoàn ký kết hợp đồng với
các Tổng đại lý, đại lý theo hình thức "Tổng đại lý bao tiêu hưởng thù
lao" hoặc "Đại lý bao tiêu hưởng thù lao" với các đặc điểm, nội
dung cơ bản của hợp đồng đại lý là: Bên giao đại lý không chịu trách nhiệm đối
với mọi rủi ro, tổn thất về hàng hoá phát sinh sau thời điểm chuyển giao quyền
sở hữu hàng hoá (phương tiện vận chuyển đã nhận hàng ra khỏi cổng kho của Bên
giao đại lý hoặc sau khi Bên giao đại lý nạp hàng vào kho của Bên nhận đại lý);
Giá giao cho các Tổng đại lý, đại lý bằng (=) giá bán lẻ theo quy định tại từng
thời điểm trừ (-) đi thù lao Tổng đại lý, đại lý trừ các khoản hỗ trợ; thù lao
Tổng đại lý, đại lý do Bên giao đại lý quy định theo từng thời điểm, ứng với điểm
giao nhận và hình thức thanh toán.
Căn cứ vào các quy định nêu trên và thực tế hoạt
động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, trường hợp Tập đoàn
xăng dầu Việt Nam và các đơn vị thành viên của Tập đoàn có ký hợp đồng với các
Tổng đại lý, đại lý theo hình thức "Tổng đại lý bao tiêu hưởng thù
lao" hoặc "Đại lý bao tiêu hưởng thù lao" với các đặc điểm, nội
dung cơ bản của hợp đồng đại lý là: Bên giao đại lý không chịu trách nhiệm đối
với mọi rủi ro, tổn thất về hàng hoá phát sinh sau thời điểm chuyển giao quyền
sở hữu hàng hoá (phương tiện vận chuyển đã nhận hàng ra khỏi cổng kho của Bên
giao đại lý hoặc sau khi Bên giao đại lý nạp hàng vào kho của Bên nhận đại lý);
thù lao Tổng đại lý, đại lý do Bên giao đại lý quy định theo từng thời điểm, ứng
với điểm giao nhận và hình thức thanh toán thì khi xuất hàng bán cho các Tổng đại
lý, đại lý, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam và các đơn vị thành viên thuộc. Tập đoàn
xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho Tổng đại lý, đại lý theo giá tính thuế giá trị
gia tăng là giá giao cho các Tổng đại lý, đại lý được quy định trong hợp đồng
chưa có thuế giá trị gia tăng (không bao gồm thù lao đại lý và các khoản hỗ trợ).
Tuy nhiên, Bộ Tài chính được biết mức thù lao đại
lý theo hợp đồng Tổng đại lý và đại lý thường không thống nhất nên kết quả hoạt
động của các Tổng đại lý và đại lý khác nhau. Vì vậy, đề nghị KTNN tham khảo
thêm ý kiến của Bộ Công thương về thoả thuận mức thù lao đại lý theo hình thức
đại lý ký kết giữa Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam và các đơn vị thành viên của Tập
đoàn với các Tổng đại lý đại lý có phù hợp với quy định của pháp luật thương mại
hay không.
2. Về việc trích, bù trừ số trích Quỹ bình ổn
giá xăng dầu tại Công ty mẹ - Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam
Tại khoản 1 Điều 26 Nghị định số
84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính Phủ quy định về kinh doanh xăng dầu
và điều kiện kinh doanh xăng dầu tại thị trường Việt Nam quy định:
"Thương nhân đầu mối có nghĩa vụ trích lập
Quỹ Bình ổn giá để tham gia bình ổn giá..."
Tại điều 4 Thông tư số
234/2009/TT-BTC ngày 09/12/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế hình
thành, quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo quy định của Nghị định
số 84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu quy định:
"Các thương nhân đầu mối được quyền chủ động
thực hiện các phương thức kinh doanh xăng dầu phù hợp với thông lệ quốc tế và
các quy định của pháp luật, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất kinh
doanh; trích lập Quỹ bình ổn giá..."
Căn cứ các quy định nêu trên, Tổng công ty xăng
dầu Việt Nam nay là Tập đoàn xăng dầu Việt Nam) là thương nhân đầu mối phải có
trách nhiệm và nghĩa vụ trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu (quỹ BOG) Việc Tập
đoàn ban hành văn bản số 1997/PLX-TCKT ngày 27/12/2011 hướng dẫn các đơn vị
thành viên hoạt động kinh doanh xăng dầu có lãi giai đoạn từ ngày 01/01/2011 đến
30/11/2011 thực hiện trích quỹ BOG, điều chỉnh giảm lợi nhuận tại các đơn vị
này là chưa đúng quy định. Vì vậy để được xem xét thực hiện khác với quy định
này thì Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam cần phải xin phép và được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền cho phép.
Tuy nhiên, việc yêu cầu Tập đoàn Xăng dầu Việt
Nam và các đơn vị thành viên điều chỉnh việc trích lập quỹ BOG theo đúng quy định
tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ sẽ ảnh hưởng đến
việc xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa theo phương án cổ phần hóa
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và ảnh hưởng đến lợi ích của các nhà đầu
tư đã mua cổ phần. Do đó, đề nghị KTNNN cân nhắc phương án xử lý trên cơ sở phù
hợp với quy định của pháp luật và thực tiễn.
3. Về phương pháp tính giá cơ sở
Tại khoản 9 Điều 3 Nghị định số
84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu quy định:
(Giá cơ sở là giá để hình thành giá bán lẻ xăng
dầu bao gồm các yếu tố và được xác định bằng (=) { Giá CIF cộng (+) Thuế nhập
khẩu cộng (+) Thuế tiêu thụ đặc biệt} nhân (x) Tỷ giá ngoại tệ cộng (+) Chi phí
kinh doanh định mức cộng (+) Quỹ Bình ổn giá cộng (+) Lợi nhuận định mức trước
thuế cộng (+) Thuế giá trị gia tăng cộng (+) Phí xăng dầu cộng (+) Các loại thuế,
phí và các khoản trích nộp khác theo quy định pháp luật hiện hành; được tính
bình quân của số ngày dự trữ lưu thông quy định tại Điều 22
Nghị định này; trong đó:
Giá CIF là giá xăng dầu thế giới cộng (+) phí bảo
hiểm cộng (+) Cước vận tải về đến cảng Việt Nam;..."
Tại khoản 1 Điều 22 Nghị định số
84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ nêu trên quy định:
"Điều 22. Dự trữ lưu thông xăng dầu
1. Kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực đến năm
2025, thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu phải bảo đảm ổn định
mức dự trữ lưu thông xăng dầu tối thiểu bằng ba mươi (30) ngày cung ứng cả về
cơ cấu chủng loại, theo kế hoạch tiêu thụ được xác định hàng năm của thương
nhân."
Căn cứ các quy định nêu trên, việc xác định giá
cơ sở được dựa trên giá Platt's Singapore bình quân 30 ngày phù hợp với số ngày
dự trữ lưu thông; không căn cứ vào giá nhập khẩu thực tế của bất cứ doanh nghiệp
đầu mối nào. Trong khoảng thời gian 30 ngày đó, doanh nghiệp nào tính toán, dự
báo tốt sẽ nhập được những lô hàng giá rẻ hơn thì sẽ có lợi nhuận nhiều hơn và
ngược lại.
Về phương pháp tính bình quân giá xăng dầu.thế
giới trong mối liên hệ với phí bảo hiểm, cước vận tải về đến cảng Việt Nam để
tính giá CIF, thuế, chi phí...: việc xác định mức phí bảo hiểm, cước vận tải cụ
thể về đến cảng Việt Nam để tính giá CIF được thay đổi theo từng thời điểm cụ
thể tính toán; Bộ Tài chính không lấy theo số liệu của một doanh nghiệp kinh
doanh xăng dầu đầu mối nào mà lấy theo trung bình tiên tiến của các doanh nghiệp
đó trong từng thời điểm cụ thể.
Việc quy định giá cơ sở như trên là để hình
thành giá bán lẻ xăng dầu trong nước, để cơ quan quản lý nhà nước căn cứ vào
giá cơ sở xây dựng các phương án điều hành kinh doanh xăng dầu trong nước. Việc
hạch toán kế toán của doanh nghiệp phải căn cứ vào chứng từ thực tế.
4. Về quan điểm xử lý chênh lệch giữa chi phí thực
tế kinh doanh nội địa và chi phí kinh doanh định mức quy định tại Thông tư số
234/2009/TT-BTC ngày 09/12/2009 của Bộ Tài chính.
Tại điểm 1 Mục IV Phần C Thông
tư số 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 của Bộ Tài chính quy định:
"1. Trừ các khoản chi nêu tại Khoản 2 Mục
này, doanh nghiệp được trừ mọi khoản chi nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau:
1.1. Khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến
hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp;
1.2. Khoản chi có đủ hoá đơn, chứng từ hợp pháp
theo quy định của pháp luật"
Tại khoản 3, khoản 6 Điều 3
Thông tư số 234/2009/TT-BTC ngày 09/12/2009 của Bộ Tài chính quy định:
"3. Giá cơ sở là giá để hình thành giá bán
lẻ xăng dầu bao gồm các yếu tố và được xác định bằng (=) giá CIF cộng (+) Thuế
nhập khẩu cộng (+) Thuế tiêu thụ đặc biệt} nhân (x) Tỷ giá ngoại tệ cộng (+)
Chi phí kinh doanh định mức cộng (+) Quỹ Bình ổn giá (+) Lợi nhuận định mức trước
thuế cộng (+) Thuế giá trị gia tăng cộng (+) Phí xăng dầu cộng (+) Các loại thuế,
phí và các khoản trích nộp khác theo quy định của pháp luật hiện hành. Giá cơ sở
được tính bình quân của số ngày dự trữ lưu thông quy định tại Điều
22 Nghị định 84/2009/NĐ-CP."
"6. Chi phí kinh doanh định mức là chi phí
lưu thông xăng dầu (chi phí bán buôn, chi phí bán lẻ) trong nước của các thương
nhân đầu mối (đã bao gồm chi phí giành cho Tổng đại lý, đại lý) để tính giá cơ
sở theo mức tối đa, trong đó:
- Chi phí bán lẻ bình quân giữa các vùng trong cả
nước đối với xăng, dầu điêzen, dầu hoả tối đa: 600 đồng/lít;
- Chi phí bán buôn bình quân giữa các vùng trong
cả nước đối với dầu madut tối đa: 400 đồng/kg.
Các mức chi phí kinh doanh định mức tối đa trên
sẽ được Bộ Tài chính Thông báo điều chỉnh phù hợp với thực tế kinh doanh của
các thương nhân đầu mối trong từng thời kỳ."
Do đặc thù của hoạt động kinh doanh xăng dầu là
hoạt động kinh doanh có điều kiện, những năm qua nhà nước luôn điều hành đảm bảo
hài hoà lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng và nhà nước, giá bán lẻ do
Nhà nước quy định, không hoàn toàn theo nguyên tắc cơ chế thị trường. Do đó, để
đảm bảo có thể quản lý và điều hành tốt giá xăng dầu theo quy định của Nghị định
số 84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ, hoạt động kinh doanh xăng dầu vừa
phải đảm bảo tuân thủ pháp luật về thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp), vừa phải
đảm bảo tuân thủ các quy định đặc thù đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu. Vì
vậy, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu phải tuân thủ quy định về chi phí
kinh doanh định mức tại Thông tư số 234/2009/TT-BTC ngày 09/12/2009 của Bộ Tài
chính nêu trên. Tuy nhiên, đề nghị Kiểm toán Nhà nước cân nhắc đánh giá tác động
của việc xử lý khoản chênh lệch giữa chi phí kinh doanh xăng dầu thực tế của Tập
đoàn với chi phí kinh doanh xăng dầu theo định mức trước thời điểm cổ phần hóa
đối với phương án cổ phần hóa Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt và lợi ích của các cổ đông để đề xuất phương án xử lý phù hợp
với thực tế.
5. Về tính hợp lý của văn bản số 2924/TCT-PC
ngày 19/8/2011 của Tổng cục Thuế về việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
(TNDN) do niêm yết chứng khoán lần đầu giai đoạn 2004-2006.
Căn cứ theo hướng dẫn của Bộ Tài chính tại công
văn số 11924 TC/CST ngày 20/10/2004 và công văn số 10997/BTC-CST ngày
08/09/2006: các tổ chức có chứng khoán được niêm yết lần đầu tại Trung tâm giao
dịch chứng khoán trong các năm 2004, 2005 và 2006 được giảm 50% số thuế TNDN phải
nộp trong 2 năm kể từ khi thực hiện niêm yết.
Ngày 13/11/2008, Thủ tướng Chính phủ đã có kết
luận về tính hợp pháp của công văn số 11924 TC/CST ngày 20/10/2004 và công văn
số 10997/BTC-CST ngày 08/09/2006 nêu trên tại Thông báo số 318/TB-VPCP của Văn
phòng Chính phủ như sau:
"Thủ tướng Chính phủ chấp thuận với biện
pháp mà Bộ Tài chính đã thực hiện giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp đối với tổ
chức niêm yết chứng khoán trong thời gian 02 năm, kể từ khi có chứng khoán được
niêm yết lần đầu trên thị trường chứng khoán trong giai đoạn các năm
2004-2006".
Căn cứ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ
Tài chính đã chỉ đạo Tổng cục Thuế có văn bản hướng dẫn về ưu đãi thuế TNDN đối
với doanh nghiệp niêm yết chứng khoán lần đầu giai đoạn từ năm 2004-2006 (Công
văn số 148/TCT-PC, 149/TCT-PC, 154/TCT-PC).
Sau khi có các văn bản hướng dẫn nêu trên, một số
đơn vị có công văn phản ánh vướng mắc trong việc xác định ưu đãi thuế TNDN đối
với doanh nghiệp niêm yết chứng khoán nhưng chưa thực hiện đăng ký và hưởng ưu
đãi ngay khi có chứng khoán niêm yết. Sau khi báo cáo và được sự phê duyệt của
Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã ban hành công văn số 2924/TCT-PC ngày 19/8/2011,
trong đó có hướng dẫn:
"Các doanh nghiệp niêm yết chứng khoán lần
đầu trong giai đoạn từ năm 2004-2006, kể từ năm niêm yết chứng khoán đến năm
2008 (năm tài chính) doanh nghiệp đang trong thời gian hưởng ưu đãi miễn, giảm
thuế TNDN theo quy định của Luật thuế TNDN, doanh nghiệp đã kê khai hưởng ưu
đãi giảm thuế TNDN do có chứng khoán niêm yết lần đầu theo hướng dẫn tại công
văn số 11924 TC/CST, công văn số 10997/BTC-CST của Bộ Tài chính nêu trên theo
các trường hợp sau:
Doanh nghiệp hết thời gian miễn, giảm thuế TNDN
theo quy định của Luật Thuế TNDN, doanh nghiệp mới kê khai giảm 50% thuế TNDN
do niêm yết chứng khoán; Doanh nghiệp hết thời gian miễn thuế TNDN, đang trong
thời gian giảm thuế TNDN quy định của Luật Thuế TNDN, doanh nghiệp đã kê khai đồng
thời giảm 50% thuế TNDN do niêm yết chứng khoán và quy đổi thành năm miễn thuế
TNDN thì doanh nghiệp được hưởng đủ 02 năm giảm 50% thuế TNDN do niêm yết chứng
khoán lần đầu.
Trường hợp năm tài chính 2008 là năm đầu tiên
doanh nghiệp đã kê khai ưu đãi giảm 50% thuế TNDN do niêm yết chứng khoán lần đầu
thì doanh nghiệp tiếp tục được hưởng ưu đãi giảm 50% thuế TNDN một năm còn lại
vào năm 2009. Thời gian ưu đãi giảm 50% thuế TNDN do niêm yết chứng khoán lần đầu
thực hiện theo nguyên tắc tính liên tục.
Các trường hợp từ năm 2008 trở về trước, doanh
nghiệp đã kê khai ưu đãi giảm 50% thuế TNDN do niêm yết chứng khoán theo các
trường hợp nêu trên mà Cục Thuế đã thanh tra, kiểm tra, xác định doanh nghiệp
không được hưởng ưu đãi giảm 50% thuế TNDN do niêm yết chứng khoán và thực hiện
truy thu thuế đối với các trường hợp này thì nay yêu cầu Cục Thuế điều chỉnh lại,
chấp nhận theo năm doanh nghiệp tự kê khai hưởng ưu đãi giảm thuế TNDN do có chứng
khoán niêm yết lần đầu để đảm bảo nguyên tắc xử lý thống nhất.
Trường hợp các doanh nghiệp niêm yết chứng khoán
lần đầu giai đoạn từ năm 2004-2006, kể từ năm đầu tiên niêm yết chứng khoán đến
hết năm 2008 doanh nghiệp đang trong thời gian hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế
TNDN theo quy định tại Luật Thuế TNDN, những nếu đến năm 2008 doanh nghiệp vẫn
chưa kê khai hưởng ưu đãi giảm 50% số thuế TNDN phải nộp do có chứng khoán niêm
yết lần đầu thì từ năm 2009 theo quy định của Luật thuế TNDN sửa đổi có hiệu lực
từ 01/01/2009, doanh nghiệp sẽ không được hưởng ưu đãi giảm 50% số thuế TNDN phải
nộp do có chứng khoán niêm yết lần đầu giai đoạn từ năm 2004-2006".
Hướng dẫn tại công văn số 2924/TCT-PC ngày
19/8/2011 nêu trên nhằm giải quyết các vấn đề bất hợp lý hướng dẫn tại Công văn
số 148/TCT-PC, công văn số 149/TCT-PC và công văn số 154/TCT-PC đối với các
doanh nghiệp có chứng khoán niêm yết lần đầu trong giai đoạn 2004-2006, đảm bảo
nguyên tắc việc hưởng ưu đãi giảm thuế TNDN do có chứng khoán niêm yết lần đầu
không kéo dài và đảm bảo tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều 20
Nghị định số 124/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Thuế TNDN:
"Doanh nghiệp đang hưởng ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 09/2003/QH11,
Luật Dầu khí và các văn bản pháp luật của Chính phủ ban hành trước ngày Nghị định
này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục được hưởng các ưu đãi theo quy định của
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 09/2003/QH11, Luật Dầu khí và các văn bản
pháp luật của Chính phủ đã ban hành cho thời gian còn lại;..."
Tức là doanh nghiệp trước 01/01/2009 đang được
hưởng ưu đãi giảm thuế TNDN do có chứng khoán niêm yết lần đầu theo các văn bản
hướng dẫn của Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế nêu trên thì tiếp tục được hưởng ưu
đãi giảm thuế TNDN nhưng thời gian được hưởng ưu đãi tối đa là 2 năm.
Như vậy hướng dẫn tại công văn số 2924/TCT-PC
ngày 19/08/2011 nêu trên hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật về thuế
và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 318/TB-VPCP của Văn
phòng Chính phủ.
Bộ Tài chính trả lời để Kiểm toán Nhà nước biết./.
|
TL. BỘ TRƯỞNG
KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC THUẾ
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG
Cao Anh Tuấn
|