Chỉ thị 91-TTg-VG năm 1964 về tăng cường tiêu diệt bệnh sốt rét ở miền Bắc do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 91-TTg-VG
Ngày ban hành 06/10/1964
Ngày có hiệu lực 21/10/1964
Loại văn bản Chỉ thị
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phạm Hùng
Lĩnh vực Thể thao - Y tế

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 91-TTG-VG

Hà Nội, ngày 06 tháng 10 năm 1964 

 

CHỈ THỊ

VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG TIÊU DIỆT BỆNH SỐT RÉT Ở MIỀN BẮC

I. TÌNH HÌNH BỆNH SỐT RÉT TRƯỚC NGÀY CHÍNH PHỦ BAN HÀNH CHỦ TRƯƠNG TIÊU DIỆT BỆNH SỐT RÉT Ở MIỀN BẮC NƯỚC TA

Vùng rừng núi ở miền Bắc nước ta là vùng giầu có về lâm sản, khoáng sản nhưng dưới chế độ phong kiến, đế quốc, nhân dân vùng này thường xuyên bị bệnh sốt rét tác hại: đa số bị bụng báng, da vàng, sức khỏe yếu mòn, phụ nữ mắc bệnh sốt rét thường bị sảy thai, đẻ non, trẻ em chết yểu. Do đó sản xuất bị giảm sút, đời sống nghèo nàn, lạc hậu.

Người dân tộc ít người khi bị mắc bệnh sốt rét thì cho là do ma bắt. Người miền xuôi sợ hãi vùng rừng núi là nơi “ma thiêng nước độc”.

Sau ngày hòa bình được lập lại, tình hình bệnh sốt rét ở miền Bắc cụ thể như sau:

Thái-nguyên

Hà-giang

Bắc-cạn

Tuyên-quang

Nghệ-an (miền núi)

Thái-mèo

Nhiều nơi 80% nhân dân bụng báng.

Tỷ lệ người sưng lá lách

Tỷ lệ người mang ký sinh trùng sốt rét

41,2%

38,55%

37,42%

36,15%

45,2%

28,4%

đến 57%

9,2%

10,76%

10,33%

15,5%

8,8%

7,7%

v.v…

 

Ở các bệnh viện, bệnh xá, nhân dân ốm và chết về bệnh sốt rét chiếm tỷ lệ rất cao so với các bệnh khác.

Thái-mèo

Tuyên-quang

Hà-giang

Người mắc bệnh sốt rét so với tổng số người mắc các bệnh khác

Người chết vì bệnh sốt rét so tổng số người chết vì các bệnh khác

24,13%

47,13%

41,62%

21,42%

41,23%

22,22%

Ở các công trường, nông trường, xí nghiệp, một số lớn công nhân mắc bệnh sốt rét. Tỷ lệ người sưng lá lách so với tổng số công nhân như sau:

Mỏ aqatite Lào-cai   

17,45%

Nông trường sông Con   

31,3%

Nông trường Đông hiếu  

20,21%

Nông trường Tây hiếu 

30,09%

Công trường xây dựng mỏ thiếc Tĩnh-túc 

8,5%

Công trường xây dựng nhà máy thủy điện Tà-xa 

19,19%

Công trường 111 Lai-châu có 34% nhân số mắc bệnh sốt rét; trong 14 tháng có 120 người chết vì bệnh sốt rét và sưng phổi; đội 46 cầu đường Lai-châu có 27 người chết thì 12 người chết vì bệnh sốt rét ác tính.

II. CHỦ TRƯƠNG KẾ HOẠCH TIÊU DIỆT BỆNH SỐT RÉT Ở MIỀN BẮC

Sau khi hòa bình lập lại, Đảng và Chính phủ coi việc tiêu diệt bệnh sốt rét là nhiệm vụ hàng đầu của công tác y tế ở miền núi. Nghị quyết của đại hội Đảng lần thứ III đã ghi rõ nhiệm vụ tiêu diệt bệnh sốt rét và Hội đồng Chính phủ trong phiên hợp thường vụ tháng 5 năm 1961 quyết định tiến hành kế hoạch tiêu diệt bệnh sốt rét ở miền Bắc nước ta.

Nguyên tắc căn bản của việc tiêu diệt bệnh sốt rét là diệt muỗi truyền bệnh sốt rét và diệt hết ký sinh trùng sốt rét ở trong người .

Kế hoạch tiêu diệt bệnh sốt rét gồm bốn giai đoạn:

a) Giai đoạn chuẩn bị: 1957 – 1960. Nhiệm vụ của giai đoạn này là điều tra nghiên cứu tình hình bệnh sốt rét, nghiên cứu các biện pháp về tổ chức và kỹ thuật thích hợp trên một thí điểm rộng lớn (toàn tỉnh Thái-nguyên), tích cực chuẩn bị lực lượng vật chất, cán bộ cho giai đoạn sau. Cũng trong giai đoạn này, tiến hành tích cực chống bệnh sốt rét ở các vùng có nông trường, hầm mỏ, biên giới Lào Việt, dọc theo các đường giao thông chính ở Tây bắc.

b) Giai đoạn tấn công bệnh sốt rét trên toàn miền Bắc: 1961 – 1965. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là phun thuốc DDT diệt muỗi truyền bệnh, mỗi năm một lần, liên tục trong thời gian 3, 4 năm, đồng thời xây dựng cơ sở y tế xã, y tế hợp tác xã để phát hiện bệnh sốt rét (thử máu, thử ký sinh trùng…) và cho những người mắc bệnh sốt rét uống thuốc.

c) Giai đoạn củng cố: từ ba đến năm năm. Khi các cơ sở y tế xã, hợp tác xã được vững chắc, bảo đảm phát hiện tốt bệnh sốt rét, khi số người mắc bệnh sốt rét có ký sinh trùng ở một vùng chỉ còn 50/000 trong tổng số nhân dân, khi các trẻ em dưới hai tuổi không còn em nào bị bệnh sốt rét thì vùng đó sẽ chuyển sang giai đoạn củng cố. Trong giai đoạn này, nhiệm vụ chủ yếu là phát hiện cho được bệnh nhân sốt rét còn sót và điều trị kịp thời; chỉ phun thuốc DDT ở những nhà có người mắc bệnh sốt rét và những nhà chung quanh

d) Giai đoạn bảo vệ những thành quả đã đạt được : khi bệnh sốt rét không còn nữa, công tác chủ yếu là không cho bệnh sốt rét ở nước ngoài thâm nhập vào miền Bắc, phát hiện kịp thời và tiêu diệt cấp tốc các ổ dịch bệnh sốt rét có thể xảy ra.

III. KẾT QUẢ THI HÀNH CHO ĐẾN NAY

Giai đoạn điều tra nghiên cứu làm thí điểm đã hoàn thành tốt. Giai đoạn tấn công của kế hoạch tiêu diệt bệnh sốt rét bắt đầu từ năm 1961.

Hàng năm những vùng có bệnh sốt rét đã được phun thuốc DDT một lần: đến nay 3.007 xã trong 183 huyện của 28 tỉnh có bệnh sốt rét đã được phun thuốc DDT, bảo vệ 5.300.000 người. Những người mắc bệnh sốt rét đều được điều trị.

Bệnh sốt rét ở các nhà máy, nông trường, hầm mỏ, hợp tác xã khai hoang đã giảm nhiều so với mấy năm trước. Ở tỉnh Thái-nguyên, tỷ lệ người sưng lá lách từ 41,2% năm 1957 xuống 3,15% năm 1961; tỷ lệ người mang ký sinh trùng sốt rét từ 9,2% năm 1957 xuống 0,018% năm 1963. Số bệnh nhân vào điều trị và chết vì bệnh sốt rét ở các bệnh viện, bệnh xá ở vùng có bệnh sốt rét hạ thấp rõ rệt.

Tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh sốt rét so với tổng số bệnh nhân mắc các bệnh khác:

 

1958

1963

Thái Mèo

24,13%

7,93%

Tuyên-quang 

47,13%

16,28%

Hà-giang

41,62% 

5,64%

Yên-bái

52,54% 

5,14%

Bệnh nhân chết vì bệnh sốt rét so với tổng số bệnh nhân chết vì các bệnh khác:

 

1958  

1963

 Thái Mèo 

21,41% 

0,039%

Tuyên-quang

46,25%

 0,85%

Hà-giang 

 22,22%

 0,41%

[...]