Chỉ thị 01/2002/CT-BTP thực hiện các nhệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp năm 2002 do Bộ Tư pháp ban hành
Số hiệu | 01/2002/CT-BTP |
Ngày ban hành | 02/01/2002 |
Ngày có hiệu lực | 02/01/2002 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Bộ Tư pháp |
Người ký | Nguyễn Đình Lộc |
Lĩnh vực | Bộ máy hành chính,Thủ tục Tố tụng |
BỘ
TƯ PHÁP |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 01/2002/CT-BTP |
Hà Nội, ngày 02 tháng 1 năm 2002 |
VỀ THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CỦA CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2002
Năm 2001, năm mở đầu thế kỷ mới, công tác tư pháp đã đạt được những chuyển biến rõ rệt. Nhiều nhiệm vụ trọng tâm được xác định trong Chỉ thị đầu năm của Bộ đã được tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả. Đó là kết quả của sự cố gắng chung theo tinh thần tích cực, chủ động, khẩn trương, liên tục trong suốt năm của cán bộ, công chức toàn Ngành. Đó đồng thời, là kết quả của sự chỉ đạo chặt chẽ, sự quan tâm lớn và tạo nhiều điều kiện của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở Trung ương và ở địa phương, của Lãnh đạo các Bộ, Ngành cho công tác Tư pháp, Pháp chế.
Tuy nhiên, trước những đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo chiều rộng và cả bề sâu, phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế thế giới, bên cạnh những kết quả và chuyển biến tích cực, thì vẫn còn những mặt công tác chưa được tập trung tổ chức thực hiện để hoàn thành đúng tiến độ kế hoạch: Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp, nhất là các cơ quan tư pháp địa phương, tổ chức pháp chế các Bộ, ngành chậm được kiện toàn, đổi mới trước yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng được mở rộng; Tiến độ xây dựng, thẩm định một số đề án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật còn chậm, chất lượng thấp; Công tác thi hành án dân sự, hành chính, bổ trợ tư pháp vẫn còn không ít khó khăn, vướng mắc chưa được tháo gỡ và chỉ đạo kịp thời. Nhìn chung công tác toàn ngành tư pháp còn chưa ngang tầm.
Năm 2002 là năm toàn Đảng, toàn dân tiếp tục triển khai thi hành Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng; là năm đầu tiên triển khai thi hành các quy định mới được sửa đổi, bổ sung của Hiến pháp năm 1992 và các Luật về tổ chức bộ máy Nhà nước; Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo Nghị quyết của Bộ Chính trị và thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
Đối với công tác tư pháp, năm 2002, tiếp tục có những chuyển biến mạnh mẽ hơn, vừa đáp ứng những đòi hỏi của đất nước, vừa tạo sự chuyển biến cơ bản trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của toàn ngành: Kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực xây dựng pháp luật, thẩm định, rà soát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm hiệu quả công tác thi hành án dân sự, quản lý Toà án địa phương; tăng cường hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý miễn phí đến tận cơ sở; tiếp tục đổi mới hoạt động và cải cách thủ tục hành chính trong các hoạt động bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hỗ trợ nhân dân về pháp luật.
Để công tác tư pháp chủ động đáp ứng được các yêu cầu và định hướng nêu trên, trong năm 2002 cần đẩy mạnh việc thực hiện toàn diện các công tác thuộc chức năng, nhiệm vụ của ngành, trong đó tập trung tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp như sau:
1. Tiếp tục kiện toàn các cơ quan tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh.
Khẩn trương hoàn chỉnh trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 38/CP và phối hợp với các cơ quan Nhà nước hữu quan sửa đổi, bổ sung Thông tư liên bộ số 12/TTLT theo đề án về kiện toàn tổ chức các cơ quan tư pháp đã trình Chính phủ nhằm hoàn chỉnh mô hình hệ thống tổ chức, kiện toàn, củng cố các cơ quan tư pháp từ Trung ương đến cơ sở.
Trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 94/NĐ-CP về tổ chức pháp chế Bộ, ngành nhằm kiện toàn một bước các tổ chức pháp chế Bộ, ngành ở Trung ương, xây dựng tổ chức pháp chế ở các sở, ngành địa phương, doanh nghiệp. Đẩy mạnh hoạt động, đảm bảo tác dụng thiết thực của Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp.
Lấy năm 2002 là "Năm kiện toàn tổ chức và tăng cường năng lực hoạt động của các cơ quan tư pháp địa phương cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã". Chú trọng củng cố, tăng biên chế cho cơ quan tư pháp cấp huyện để đẩy mạnh các mặt công tác tư pháp trên địa bàn huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; là "năm phát huy vai trò của các tổ chức pháp chế trong việc chủ động tham mưu và phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, chấp hành Hiến pháp và pháp luật".
Chú trọng giáo dục và rèn luyện đội ngũ cán bộ tư pháp về phẩm chất, chính trị, đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp. Tiếp tục tổ chức học tập quán triệt văn kiện Đại hội Đảng IX; xây dựng chương trình hành động của từng cơ quan, đơn vị để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng IX. Định kỳ đánh giá hiệu quả công tác, lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ quản lý và các chức danh tư pháp. Xây dựng cơ chế, tạo điều kiện để nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Thực hiện chế độ luân chuyển cán bộ và đưa công chức trẻ đi thực tế cơ sở.
Chủ động chuẩn bị về mọi mặt để sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ tăng thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân địa phương. Bảo đảm đủ thẩm phán cho các Toà án địa phương để hết năm 2002 không còn tình trạng thiếu thẩm phán. Thực hiện kịp thời, nghiêm túc thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động cán bộ các chức danh tư pháp.
Thực hiện quy chế làm việc trong các cơ quan Toà án địa phương. Xây dựng quy chế làm rõ trách nhiệm cá nhân của thẩm phán khi có án bị hủy hoặc bị cải sửa.
Hoàn chỉnh chiến lược xây dựng pháp luật 10 năm (2001 - 2010) trên cơ sở đê án đánh giá nhu cầu phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam.
Xây dựng phương án đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, quy trình thẩm định, rà soát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật từ Trung ương đến chính quyền địa phương các cấp.
Tập trung chỉ đạo để hoàn thành nhiệm vụ tổng rà soát văn bản quy phạm pháp luật.
Cơ quan tư pháp các cấp chủ động làm tốt chức năng thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của Chính phủ và chính quyền địa phương, bảo đảm văn bản quy phạm pháp luật có nội dung đúng đắn, nhất quán, hợp hiến, hợp pháp, minh bạch, khả thi.
Thực hiện định kỳ đánh giá chất lượng, kiểm tra tiến độ thẩm định các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Tập trung hoàn thành đúng tiến độ các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong chương trình xây dựng pháp luật năm 2002.
Tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động tổ chức quán triệt, nghiên cứu Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cho đội ngũ cán bộ tư pháp, trước hết là các thẩm phán, cán bộ pháp chế các Bộ, ngành, doanh nghiệp, luật sư, cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, xây dựng pháp luật.
Tiếp tục nghiên cứu, rà soát các vấn đề pháp lý bức xúc trong quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế để làm tốt chức năng tham mưu, đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật, kịp thời xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến Hội nhập quốc tế, trước hết là các vấn đề Hội nhập kinh tế khu vực, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
Quản lý chặt chẽ hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật theo Nghị định số 103/NĐ-CP ngày 26/12/1998 của Chính phủ. Nâng cao hiệu quả của các dự án hợp tác về pháp luật với nước ngoài và tổ chức quốc tế. Tổ chức thực hiện kịp thời các uỷ thác tư pháp.
Đẩy mạnh hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự ở các cấp. Thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao năng lực, trách nhiệm, điều kiện làm việc của cơ quan thi hành án dân sự. Khẩn trương sửa đổi các văn bản pháp luật về thi hành án. Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn, kịp thời tháo gỡ vướng mắc về công tác thi hành án. Thực hiện đủ biên chế cho các cơ quan thi hành án.
Các khiếu nại, tố cáo về thi hành án phải được giải quyết kịp thời, dứt điểm tại nơi phát sinh. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực thi hành án; làm rõ nguyên nhân của các vụ việc tồn đọng, khiếu nại và trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp hành viên.