Báo cáo số 76/BC-UBND về thực trạng công tác phòng cháy chữa cháy và triển khai các giải pháp đảm bảo an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu hộ - cứu nạn tại các khu công nghiệp, chợ, khách sạn, siêu thị, trung tâm thương mại và các cơ sở trọng điểm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh do Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành

Số hiệu 76/BC-UBND
Ngày ban hành 14/07/2009
Ngày có hiệu lực 14/07/2009
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Thành phố Hồ Chí Minh
Người ký Nguyễn Trung Tín
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------

Số: 76/BC-UBND

TP. Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 07 năm 2009

 

BÁO CÁO

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY VÀ TRIỂN KHAI CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN TOÀN PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY VÀ CỨU HỘ - CỨU NẠN TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, CHỢ, KHÁCH SẠN, SIÊU THỊ, TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI VÀ CÁC CƠ SỞ TRỌNG ĐIỂM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngày 23 tháng 12 năm 2005 Bộ trưởng Bộ Công an ký Quyết định số 1930/QĐ-BCA (C11) phê duyệt dự án “Điều tra cơ bản đánh giá thực trạng công tác Phòng cháy và chữa cháy (PCCC) tại Khu công nghiệp, chợ, siêu thị, trung tâm thương mại và các cơ sở trọng điểm Quốc gia trên địa bàn 05 thành phố lớn. Nâng cao hiệu quả quản lý chỉ huy và điều hành công tác Phòng cháy, chữa cháy và cứu hộ, cứu nạn - mã số DA-ĐTPCCC/2006”. Mục tiêu của dự án là: xây dựng hệ thống thông tin tổng hợp phản ánh đầy đủ hiện trạng về công tác PCCC; xây dựng phương án, kế hoạch PCCC, cứu hộ - cứu nạn tại các cơ sở này để chủ động ứng phó khi có các tình huống cháy nổ xảy ra tại các Khu công nghiệp, chợ, siêu thị, trung tâm thương mại và các cơ sở trọng điểm Quốc gia trên địa bàn 05 thành phố lớn (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ).

Ngày 01 tháng 8 năm 2008 Cục trưởng Cục Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy - Chủ nhiệm Dự án ký Quyết định số 636/QĐ-C23(P5) “về việc tổ chức điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng công tác PCCC tại các Khu công nghiệp, khách sạn, chợ, siêu thị, trung tâm thương mại và các cơ sở trọng điểm Quốc gia trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”; Mục đích của cuộc điều tra, nhằm thu thập những thông tin cơ bản về tên cơ sở, địa chỉ, quy mô, tính chất nguy hiểm cháy, nổ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơ sở; trang bị phương tiện PCCC và việc tổ chức triển khai thực hiện các quy định PCCC tại các cơ sở từ đó đánh giá thực trạng công tác PCCC, cứu hộ - cứu nạn và đề xuất các giải pháp đảm bảo an toàn PCCC cho các đối tượng được khảo sát. Nội dung điều tra gồm: điều tra khảo sát về công tác PCCC tại cơ sở, điều tra khảo sát về việc thực hiện trách nhiệm PCCC của người đứng đầu cơ sở, điều tra khảo sát về công tác PCCC tại các Khu công nghiệp, Khu chế xuất.

Để triển khai Quyết định số 636/QĐ-C23(P5), Cục Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy đã phối hợp với Sở Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy thành phố thành lập Ban chỉ đạo điều tra khảo sát, lập kế hoạch khảo sát, tổ chức tập huấn cho cán bộ trực tiếp điều tra và lựa chọn 389 cơ sở tiêu biểu cho các đối tượng cần tập trung khảo sát, gồm 210 cơ sở sản xuất trong các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao; 40 khách sạn; 25 chợ, 45 siêu thị, 16 trung tâm thương mại và 53 công trình trọng điểm quốc gia khác.

Trong thời gian từ tháng 9 năm 2008 đến tháng 4 năm 2009, Sở Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy thành phố đã trực tiếp điều tra, khảo sát về việc thực hiện điều kiện an toàn PCCC và trách nhiệm của người đứng đầu 389 cơ sở, 12 phiếu điều tra khảo sát khu công nghiệp. Trên cơ sở khảo sát đã xây dựng báo cáo thực trạng và giải pháp về PCCC đối với 12 khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao; 179 cơ sở khách sạn, chợ, siêu thị, trung tâm thương mại và các công trình trọng điểm quốc gia khác; xây dựng 57 phương án xử lý tình huống cháy nổ lớn tại các cơ sở trọng điểm.

Kết quả của đợt điều tra khảo sát thực trạng công tác Phòng cháy chữa cháy tại các Khu công nghiệp, chợ, khách sạn, siêu thị, trung tâm thương mại và các cơ sở trọng điểm quốc gia trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh như sau:

Phần I.

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PCCC TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, KHÁCH SẠN, CHỢ, SIÊU THỊ, TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI VÀ CÁC CƠ SỞ TRỌNG ĐIỂM

I . ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:

Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế-văn hóa-khoa học-kỹ thuật lớn của cả nước, có tổng diện tích 2.095,239 km2, gồm 24 quận, huyện, 317 phường - xã, 05 thị trấn và 1.786 khu phố, ấp, với dân số gần 8 triệu người. Cùng với sự phát triển chung của cả nước trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa, thành phố Hồ Chí Minh đã không ngừng phát triển nhanh chóng về kinh tế- xã hội, từ đó các cơ sở có nguy cơ cháy, nổ cao ngày càng nhiều. Hiện nay, trên địa bàn thành phố có trên 200.000 cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ lớn nhỏ, trong đó có gần 19.000 cơ sở thuộc diện quản lý về PCCC, trên 5.000 cơ sở thuộc diện có nguy hiểm về cháy nổ; 03 Khu chế xuất, 10 Khu công nghiệp, 01 Khu công nghệ cao, 227 chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, 755 nhà cao từ 5 tầng trở lên, trong đó có 189 nhà cao tầng trên 10 tầng, gần 1.000 khách sạn các loại ngoài ra còn có 53 khu dân cư có nguy cơ cháy cao và một số sân bay, nhà ga, bến cảng… là những đối tượng mà khi cháy, nổ không chỉ gây thiệt hại về người và tài sản mà còn ảnh hưởng lớn đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.

Trong những năm qua, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên chỉ đạo tăng cường công tác PCCC, đẩy mạnh triển khai việc thực hiện Luật Phòng cháy và chữa cháy (PCCC) trên địa bàn thành phố và đã có nhiều chuyển biến tích cực, việc tuyên truyền phổ biến pháp luật và kiến thức về PCCC đã được đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, mở rộng đối tượng trong nhiều lĩnh vực. Nhiều địa phương, ban, ngành đã thành lập Ban chỉ đạo PCCC, đầu tư kinh phí mua sắm các phương tiện, thiết bị PCCC, củng cố xây dựng lực lượng PCCC cơ sở và phát động phong trào toàn dân tham gia công tác PCCC, qua đó công tác quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn thành phố đã được củng cố và từng bước đi vào nề nếp, số vụ cháy và thiệt hại về người, tài sản đã được kéo giảm, góp phần đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn thành phố.

Tuy nhiên tình hình cháy, nổ trên địa bàn thành phố vẫn còn diễn biến phức tạp, thiệt hại do cháy gây ra vẫn ở mức cao; trong 05 năm 2004 - 2008 thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra 1495 vụ cháy, làm 40 người chết, 212 người bị thương, thiệt hại về tài sản ước tính trên 401 tỷ đồng (riêng năm 2008 thành phố đã xảy ra 195 vụ cháy, làm 05 người chết, 44 người bị thương, thiệt hại về tài sản ước tính trên 88 tỷ đồng). Ngoài thiệt hại về người và tài sản, cháy, nổ còn gây hậu quả xấu đối với an ninh, trật tự an toàn xã hội và môi trường. Tuy số vụ cháy tại các cơ sở trong Khu công nghiệp; chợ, siêu thị, trung tâm thương mại và các cơ sở trọng điểm Quốc gia trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh chỉ chiếm 43/1495 vụ (tỉ lệ 2,88%) nhưng đã gây ra thiệt hại về tài sản khoảng 93,2518 tỷ đồng (tỷ lệ 23,25%) làm chết 01 người, bị thương 10 người.

Trong thời gian sắp tới các KCX, KCN sẽ được mở rộng thêm, số lượng các Công ty đầu tư vào KCX-KCN sẽ nhiều hơn, nhiều công trình khách sạn cao tầng 30-40 tầng và cao hơn đang được thiết kế xây dựng, hệ thống chợ đầu mối và các Trung tâm thương mại, Siêu thị có diện tích sử dụng hàng chục ngàn m2 đã, đang xây dựng và hoạt động trên địa bàn thành phố. Một số công trình giao thông ngầm và các công trình ngầm nhiều tầng với quy mô lớn đã và đang triển khai thi công. Do đó nhiệm vụ đặt ra cho công tác PCCC, cứu hộ-cứu nạn của thành phố ngày càng bức thiết và đòi hỏi công tác này phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện đảm bảo an toàn cho tất cả các loại công trình đã và sẽ hình thành, hoạt động trên địa bàn thành phố.

II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY:

1. Tại các Khu công nghiệp:

Sở Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy thành phố đã tiến hành điều tra khảo sát 09 Khu công nghiệp (KCN), 03 Khu chế xuất (KCX) và 01 Khu công nghệ cao (KCNC); Tổng diện tích mặt bằng là 28,859,225 m2 (trong đó lớn nhất là KCNC: 9,131,633 m2, nhỏ nhất là KCN Bình Chiểu 273,400 m2 ); Tổng diện tích mặt bằng đã cho thuê 13,022,821 m2. Tổng số cơ sở hoạt động trong KCN, KCX, KCNC là 943 cơ sở; trong đó: các cơ sở da giày, dệt may 183/943 (tỷ lệ 19,4%); loại hình sản xuất giấy, bao bì, đồ gỗ gia dụng, chế biến gỗ 120/943 (tỷ lệ 12,72%); loại hình sản xuất phụ tùng, lắp ráp xe máy, ôtô, máy công cụ 107/943 (tỷ lệ 11,34%); loại hình sản xuất chế biến cao su, nhựa, mút xốp 91/943 (tỷ lệ 9,65 %); loại hình sản xuất lắp ráp hàng gia dụng, thiết bị văn phòng, linh kiện thiết bị điện tử 71/943 (tỷ lệ 7,53%).

Trong 05 năm từ 2004 - 2008 trong các KCN, KCX xảy ra 31 vụ cháy làm 01 người chết, bị thương 10 người, thiệt hại về tài sản khoảng 63,39 tỷ đồng, trong đó: KCX Tân thuận xảy ra 8 vụ thiệt hại về tài sản: 2,7 tỷ đồng; KCN Vĩnh Lộc xảy ra 3 vụ làm chết 1 người và bị thương 1 người, thiệt hại về tài sản: 36,1 tỷ đồng; riêng KCN Tân Tạo xảy ra 3 vụ làm bị thương 8 người, thiệt hại về tài sản: 10 tỷ đồng. Hầu hết các vụ cháy là do nguyên nhân liên quan đến các sự cố về điện như: quá tải, hệ thống điện bị hư, cũ, mục nát dẫn đến chập điện; vệ sinh công nghiệp kém dẫn đến cháy lan, cháy lớn. 20/31 vụ cháy (tỷ lệ 64,52%) xảy ra vào ban đêm hoặc các ngày nghỉ, ngày lễ. Lực lượng bảo vệ, PCCC tại chỗ thiếu kiểm tra, canh gác nên phát hiện cháy rất chậm, thời gian cháy tự do kéo dài, khả năng cứu chữa ban đầu của cơ sở kém hiệu quả, nên khi lực lượng Cảnh sát PCCC đến nơi thường đám cháy đã lan rộng, khó cứu chữa. Điển hình là vụ cháy vào lúc 19 giờ 35 phút ngày 31 tháng 5 năm 2007 tại DNTN sản xuất mực in Dy Khang, địa chỉ: Lô A25/1 đường 2C, KCN Vĩnh Lộc B, Phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân mặc dù trang bị đầy đủ hệ thống PCCC nhưng không có người trực bảo vệ, không có người vận hành các thiết bị chữa cháy nên dẫn đến cháy lớn làm thiệt hại toàn bộ 2.268m2 nhà xưởng sản xuất mực in, tổng giá trị trên 20 tỷ đồng.

Các khu công nghiệp là nơi tập trung nguyên vật liệu, hàng hóa lớn, hầu hết là các chất dễ cháy và nguy hiểm về cháy nổ như vải, da giày, giấy, gỗ, các loại dung môi hữu cơ…; số lượng rất lớn công nhân lao động (hầu hết chưa được tập huấn về công tác PCCC) làm tăng nguy cơ cháy và thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản khi có cháy xảy ra. Nhiều nhà xưởng được xây dựng trước để cho thuê, khi khai thác sử dụng, các hệ thống Phòng cháy chữa cháy đã trang bị không phù hợp theo công năng của từng cơ sở.

Các nhà xưởng trong khu công nghiệp thường có diện tích rộng, khối tích lớn, chứa nhiều chất cháy; trong các công trình thường sử dụng các vật liệu dễ cháy làm trần nhà chống nóng, làm lớp bảo ôn cách nhiệt cho hệ thống điều hòa, thông gió… nhưng không có giải pháp chống cháy lan phù hợp. Nhiều đơn vị, cơ sở bố trí văn phòng làm việc trong nhà xưởng sản xuất; nhà xưởng kết hợp làm nơi chứa hàng hóa, thành phẩm, nguyên vật liệu, thậm chí cả những chất dung môi là chất lỏng dễ cháy. Những công trình có kết cấu là nhà khung thép mái tôn, diện tích lớn khi cháy mái bị sụp xuống gây khó khăn cho lực lượng chữa cháy khống chế đám cháy phát triển.

Hầu hết các khu công nghiệp của thành phố đều ở các quận - huyện vùng ven, ngoại thành, nằm cách xa các Phòng Cảnh sát Phòng cháy và chữa cháy quận - huyện; trong khi lực lượng PCCC tại chỗ tuy có được trang bị nhưng chưa đủ mạnh, chưa được huấn luyện thuần thục. Trong trường hợp có tình huống cháy lớn, cháy lan nhất là vào các giờ cao điểm sáng và chiều, các cổng chính của các khu công nghiệp có mật độ công nhân rất cao, có nơi gần 100 ngàn người, do đó sẽ rất khó khăn cho xe chữa cháy hoạt động.

Qua điều tra khảo sát, nhìn chung công tác PCCC tại các KCN, KCX, KCNC vẫn chưa được quan tâm đúng mức, công tác kiểm tra an toàn PCCC trong các KCN, KCX, KCNC: 2/13 KCN không kiểm tra định kỳ (KCN Tây Bắc - Củ Chi và KCN Bình Chiểu); 6/13 KCN không kiểm tra đột xuất; vẫn còn 03/13 KCN chưa có phương án chữa cháy cho toàn khu (KCN Hiệp Phước, KCX Tân Thuận, Khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh); việc tổ chức thực tập phương án chữa cháy của các KCN chưa được tiến hành thường xuyên 5/10 KCN tỷ lệ 50%; hầu hết các KCN, KCX, KCNC đều thành lập Đội PCCC chuyên trách với tổng số 388 Đội viên, được trang bị 19 xe chữa cháy chuyên dùng, 05 xe chở lực lượng, phương tiện và 20 máy bơm chữa cháy. Hàng năm, có 8/13 khu công nghiệp (tỷ lệ 61,53%) có tổ chức tổng kết, khen thưởng việc thực hiện công tác PCCC tại cơ sở.

Qua khảo sát chi tiết 210 cơ sở trong KCN, KCX, KCNC (loại I: 71 cơ sở, loại II: 138 cơ sở, loại III: 01 cơ sở), hầu hết các cơ sở đã quan tâm thực hiện các quy định của Nhà nước về chữa cháy và cứu hộ - cứu nạn, một số mặt công tác được các cơ sở thực hiện tốt, đạt tỷ lệ khá cao như: có 210/210 ( tỷ lệ 100%) cơ sở đã có phương án PCCC, 210/210 (tỷ lệ 100%) cơ sở đã thành lập được Đội PCCC cơ sở, 203/210 (tỷ lệ 96,67%) cơ sở đã ban hành các quy định về an toàn PCCC, 179/210 (tỷ lệ cơ sở có tổ chức định kỳ tự kiểm tra an toàn PCCC, 134/210 cơ sở đã đăng ký cam kết đảm bảo an toàn PCCC và 104/210 cơ sở đã xây dựng kế hoạch, phương án phối hợp với các cơ sở lân cận trong chữa cháy và khắc phục hậu quả cháy.

Tuy nhiên, công tác PCCC trong khu công nghiệp còn có một số tồn tại như:

- Công tác lập hồ sơ theo dõi hoạt động PCCC đã được các cơ sở quan tâm (100% cơ sở đã lập hồ sơ), nhưng chất lượng hồ sơ chưa cao, thiếu cập nhật thường xuyên khó khai thác sử dụng.

- Nhà xưởng trong các khu chế xuất, khu công nghiệp hầu hết đều làm bằng kết cấu sườn sắt, mái tôn có giới hạn chịu lửa thấp, dễ bị sụp đổ khi xảy ra cháy, diện tích lớn, trong nhà xưởng thường bố trí kho, văn phòng làm việc, nhưng giữa các bộ phận này không có tường ngăn cháy, nhiều nhà xưởng được các công ty đầu tư phát triển hạ tầng xây dựng sẵn để cho thuê nhưng chưa biết được tính chất hoạt động của cơ sở nên khi khai thác sử dụng, hệ thống Phòng cháy chữa cháy thường không phù hợp với công năng của từng ngành, nghề, do đó khi có cháy xảy ra không được phát hiện kịp thời và chữa cháy kém hiệu quả.

- Việc chấp hành các quy định của pháp luật tại một số cơ sở còn mang tính hình thức, làm cho có, chất lượng chưa cao; Đội PCCC hoạt động không hiệu quả; công nhân không được phổ biến về luật PCCC; công tác tự kiểm tra an toàn PCCC chưa thật sự quan tâm.

- Lực lượng Phòng cháy chữa cháy chuyên trách ở các khu chế xuất, khu công nghiệp chưa xứng tầm với quy mô sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, trang bị phương tiện còn thiếu so với yêu cầu thực tế, lực lượng PCCC chuyên trách còn mỏng, hiện còn khu công nghệ cao thành phố chưa có lực lượng Phòng cháy chữa cháy chuyên trách; các cơ sở trong khu chế xuất, khu công nghiệp nhất là cơ sở có 100% vốn nước ngoài, lực lượng Phòng cháy chữa cháy tại chỗ rất hạn chế về mặt nghiệp vụ; các đội viên đội PCCC cơ sở sau khi đã được tập huấn về công tác PCCC (do Sở Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy thành phố tổ chức) không được thường xuyên luyện tập, thực tập dẫn đến bị động, lúng túng khi sự cố cháy nổ xảy ra dẫn đến cháy lan, cháy lớn (trong giai đoạn 2004- 2008: 31 vụ cháy tại KCN - tỷ lệ 2,07 % nhưng đã gây thiệt hại về tài sản khoảng 63,39 tỷ đồng - tỷ lệ 21,87%).

[...]