Báo cáo 5969/BC-BNN-PC kết quả kiểm tra công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật của Hội đồng phối hợp công tác phối hợp giáo dục pháp luật của Bộ năm 2012 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành
Số hiệu | 5969/BC-BNN-PC |
Ngày ban hành | 06/12/2012 |
Ngày có hiệu lực | 06/12/2012 |
Loại văn bản | Báo cáo |
Cơ quan ban hành | Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn |
Người ký | Trần Văn Quý |
Lĩnh vực | Bộ máy hành chính |
BỘ
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 5969/BC-BNN-PC |
Hà Nội, ngày 06 tháng 12 năm 2012 |
Thực hiện Kế hoạch số 1857/KH-BNN-PC ngày 19/6/2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Kế hoạch hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Bộ năm 2012
Căn cứ Quyết định số 2136/QĐ-BNN-PC ngày 04/9/2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc thành lập các đoàn kiểm tra công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Bộ năm 2012; Đoàn kiểm tra của Hội đồng phối hợp công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật của Bộ đã tiến hành kiểm tra tại các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh về công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và kiểm tra tại một số đơn vị thuộc Bộ gồm: Tổng cục Thủy lợi, Cục Trồng trọt, Cục Thú y.
1. Việc quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước và các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về công tác PBGDPL
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phổ biến giáo dục pháp luật từ năm 2008-2012 (gọi tắt là Chương trình 37); Quyết định số 554/QĐ-TTg ngày 04/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số từ năm 2009-2012 (viết tắt là Đề án 554); Quyết định 06/2010/QĐ-TTg ngày 25/1/2010 xây dựng quản lý khai thác tủ sách pháp luật; nhìn chung lãnh đạo các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh đã chủ động tham mưu, trình lãnh đạo tỉnh chỉ đạo thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh, đã thành lập Ban Chỉ đạo có đủ thành phần và đúng cơ cấu như: Phó Chủ tịch UBND làm Trưởng Ban Chỉ đạo, trong đó có lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là Phó ban thường trực và là đầu mối phối hợp với các đơn vị khác như Sở Tư Pháp, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ và Ban Dân tộc tỉnh; ban hành Quyết định phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật cho giai đoạn 2009-2012 (như Quyết định 123/QĐ-UBND ngày 9/11/2009 của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng; Quyết định số 1782/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về việc ban hành kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện chương trình 37; Quyết định số 1888/QĐ-UBND ngày 11/5/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương phê duyệt kế hoạch thực hiện Đề án "Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác TTPBGDPL đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước" từ năm 2008-2012; Sở Nông nghiệp Bình Dương cũng đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành QĐ 502/QĐ-UBND phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Đề án 554 trên địa bàn tỉnh và tham mưu thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh thực hiện Đề án 554; tỉnh Quảng Ninh không thành lập Ban chỉ đạo mới mà kiện toàn lại trên cơ sở Ban chỉ đạo đã được thành lập theo Quyết định số 1453/QĐ-UBND ngày 12/5/2009 của tỉnh). Trên cơ sở đó, hàng năm các Sở Nông nghiệp cũng chủ động xây dựng kế hoạch triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trình phù hợp với điều kiện của ngành.
2. Đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật của ngành.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật của ngành từng bước được xây dựng, củng cố và đã thu hút được một lực lượng đông đảo báo cáo viên, tuyên truyền viên, cộng tác viên tham gia. Qua kiểm tra cho thấy:
TP. Hải Phòng: hiện có 01 báo cáo viên cấp Thành phố, chuyên ngành luật; 39 báo cáo viên cơ sở kiêm nhiệm và chưa được cấp giấy chúng nhận (trong đó có 04 chuyên ngành luật, còn lại là các chuyên ngành khác.
Tỉnh Bình Dương: có 02 đồng chí lãnh đạo là báo cáo viên cấp tỉnh (trong đó có 01 lãnh đạo Sở và 01 lãnh đạo đơn vị).
Tỉnh Quảng Ninh: đội ngũ báo cáo viên tiếp tục được kiện toàn với tổng số báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh là 76 người; 224 báo cáo viên pháp luật cấp huyện; 712 tuyên truyền viên cấp xã cùng đông đảo đội ngũ cộng tác viên trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn pháp luật, hòa giải viên...
3. Kết quả tuyên truyền pháp luật thông qua các hình thức tuyên truyền:
- Tuyên truyền qua các lớp tập huấn: nhìn chung, hình thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật rất đa dạng và được vận dụng linh hoạt theo đặc điểm riêng phù hợp từng vùng miền. Hình thức tuyên truyền qua các lớp tập huấn được hầu hết các tỉnh lựa chọn thực hiện và phát huy hiệu quả, cần được tiếp tục duy trì trong những năm tiếp theo.
- Ngoài ra, những hình thức khác tuyên truyền, phổ biến khác cũng được các tỉnh lựa chọn như: giao ban định kỳ; lồng ghép với các chuyên đề kỹ thuật; trên các phương tiện thông tin đại chúng như Đài phát thanh truyền hình Hải phòng, Báo Hải phòng, Báo An ninh Hải phòng, trên các chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền pháp luật cho nhân dân (khoảng trên 100 chuyên mục mỗi năm); xây dựng các phóng sự về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên rau quả và 03 chuyên đề "Bạn nhà nông" về cây tiêu và cây cao su ở tỉnh Bình Dương; loa truyền thanh cơ sở tại các xã, phường thị trấn.
- Biên soạn phát hành tài liệu tuyên truyền pháp luật: dễ hiểu ngắn gọn dưới dạng hỏi đáp - sách pháp luật bỏ túi, tờ rơi, tờ gấp, sổ tay nghiệp vụ, băng, đĩa hình. Mỗi năm, Sở NN và PTNT Hải Phòng phát khoảng 35.000 tờ rơi với nội dung về ứng phó với bão lụt và động đất, sóng thần, phát 2.120 quyển sách, các pano, áp phích về động đất, sóng thần, các đĩa video về bão lũ, những việc nên làm và không nên làm trong chăn nuôi, thú y, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, bảo vệ và kiểm dịch thực vật...; Sở Bình Dương khoảng 10.500 tờ rơi; 270 poster; 45.800 tài liệu các loại...
Tủ sách pháp luật: hiện có khoảng trên 100 đầu sách với nhiều ấn phẩm như văn bản quy phạm pháp luật, tạp chí pháp luật, sách tài liệu pháp lý. Kinh phí dành cho tủ sách khoảng 1.000.000đ đến 3.000.000đ/ năm chủ yếu từ nguồn chi từ ngân sách nhà nước
- Tuyên truyền qua các hội thi tìm hiểu pháp luật bằng hình thức sân khấu hóa hưởng ứng ngày pháp luật như pháp luật lao động, hội thi công đoàn giỏi, khuyến nông viên giỏi... thu hút đông đảo các cán bộ công chức tham gia đã có tác dụng tuyên truyền tốt...
* Nội dung tuyên truyền:
Hầu hết các tỉnh được kiểm tra đã tập trung tuyên truyền, phổ biến các Luật có liên quan đến người dân như: Luật lao động, Luật Thủy sản; Luật phòng chống tham nhũng, Luật Đê điều Luật Hợp tác xã; Đất đai, Hôn nhân gia đình, Bảo vệ môi trường, Phòng chống bạo lực, Phòng chống buôn bán người, Luật bình đẳng giới, các văn bản pháp luật về chăn nuôi, thú y, trồng trọt, bảo vệ thực vật, quản lý chất lượng nông sản, khai thác thủy sản, phòng chống cháy rừng, xây dựng nông thôn mới...
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN
1. Ưu điểm:
- Các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể đã có sự chuyển biến căn bản về nhận thức đối với vị trí, vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; xác định đây là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
- Các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật dần dần đi vào nề nếp theo kế hoạch, chương trình cụ thể với nhiều hình thức, biện pháp thực hiện phù hợp với từng đối tượng và điều kiện của từng địa bàn. Ngày càng nhiều người dân, đối tượng chịu sự quản ký được tuyên truyền góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật từng bước được xây dựng, củng cố và thu hút đông đảo các báo cáo viên, tuyên truyền viên, cộng tác viên tham gia.
- Các hình thức tuyên truyền ngày càng phong phú, đa dạng và thiết thực với người dân như tuyên truyền miệng, biên soạn tài liệu phổ biến dưới dạng hỏi đáp pháp luật, tình huống pháp luật, tư vấn pháp luật... Nhận thức của người dân cũng đã tăng lên, tình hình khiếu nại, tố cáo trong các ngành cũng đã giảm hơn những năm trước, hạn chế tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp...
- Kinh phí đầu tư cho công tác này ngày càng tăng.
2. Những hạn chế, khó khăn