Báo cáo 1981/BC-BNN-KTHT năm 2014 về quy hoạch sơ bộ thủy lợi và phương hướng sắp xếp, đổi mới các Công ty Lâm nghiệp trên địa bàn Tây Nguyên do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành

Số hiệu 1981/BC-BNN-KTHT
Ngày ban hành 19/06/2014
Ngày có hiệu lực 19/06/2014
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Người ký Hà Công Tuấn
Lĩnh vực Doanh nghiệp,Tài nguyên - Môi trường

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1981/BC-BNN-KTHT

Hà Nội, ngày 19 tháng 06 năm 2014

 

BÁO CÁO

QUY HOẠCH SƠ BỘ THỦY LỢI VÀ PHƯƠNG HƯỚNG SẮP XẾP, ĐỔI MỚI CÁC CÔNG TY LÂM NGHIỆP VÙNG TÂY NGUYÊN

Thực hiện công văn số 973-CV/BCĐTN ngày 06/6/2014), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo kết quả sơ bộ quy hoạch tổng thể phát triển thủy lợi vùng Tây Nguyên đến năm 2020 và phương hướng sắp xếp, đổi mới các Công ty Lâm nghiệp trên địa bàn Tây Nguyên theo tinh thần Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị như sau:

I. QUY HOẠCH THỦY LỢI

1. Hiện trạng phát triển thủy lợi:

a) Công tác quản lý

Trên địa bàn mỗi tỉnh vùng Tây Nguyên có 4 sở tham gia quản lý nguồn nước, gồm: Sở Tài nguyên Môi trường quản lý về tài nguyên nước, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý cấp nước nông nghiệp, sinh hoạt nông thôn, Sở Xây dựng quản lý cấp nước đô thị, công nghiệp, Sở Công Thương quản lý cấp nước phát triển thủy điện.

Hiện toàn vùng có hai hình thức tổ chức lưu vực sông trên địa bàn là Ban quản lý quy hoạch lưu vực sông Đồng Nai (QĐ số 38/2001/QĐ-BNN-TCCB của Bộ Nông nghiệp và PTNT ngày 9/4/2001) và Hội đồng Ban Quản lý lưu vực sông Srepok (QĐ 41/2006/QĐ-BNN-TCCB của Bộ Nông nghiệp và PTNT ngày 25/5/2006). Nhìn chung hoạt động của các tổ chức quản lý lưu vực sông đã từng bước đáp ứng các nhu cầu thực tế trong quản lý tài nguyên nước ở các lưu vực sông. Tuy nhiên, hiện điều kiện về biên chế, tổ chức bộ máy quản lý tài nguyên nước còn chưa được đầu tư đúng mức, nhiệm vụ thì nhiều và phức tạp trong khi năng lực chưa đáp ứng.

Trên địa bàn các tỉnh, cơ quan quản lý thủy lợi gồm Chi cục Thủy lợi và Công ty Quản lý khai thác công trình thủy lợi trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tuy nhiên, hiện nay công tác quản lý khai thác hệ thống thủy lợi trên địa bàn tỉnh chưa được thống nhất. Một số công trình thủy lợi do Công ty Quản lý khai thác công trình thủy lợi quản lý, một số công trình do Tổng Công ty Cà phê kết hợp với nguồn vốn do nhân dân đóng góp tự xây dựng và tự quản lý, một số công trình thủy lợi loại nhỏ giao cho huyện, xã quản lý. Việc quản lý khai thác và đầu tư nâng cấp sửa chữa chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến nhiều công trình thủy lợi bị xuống cấp, hiệu quả phục vụ thấp.

b) Hiện trạng thủy lợi

- Hiện trạng cấp nước sinh hoạt và công nghiệp tập trung

+ Cấp nước đô thị: Tỉnh Kon Tum nguồn cấp từ sông Đăk Bla (NMN công suất 12.000m3/ngày đêm) cho Thành phố Kon Tum; Tỉnh Gia Lai nguồn cấp từ hồ Biển Hồ (NMN công suất 20.000 m3/ngày đêm) cho Thành phố Pleiku; Tỉnh Đăk Lăk nguồn nước chính là nước ngầm với công suất cấp nước từ 42.000 ¸ 49.020 m3/ngày đêm cho Thành phố Buôn Ma Thuật; Tỉnh Đăk Nông nguồn nước từ hồ thủy điện Đăk R’tih (NMN công suất 2.500 m3/ngày đêm) cấp cho Thị xã Gia Nghĩa; Tỉnh Lâm Đồng: Nguồn từ hồ Xuân Hương, Đankia, Than Thở (tổng công suất 35.000 m3/ngày đêm) cấp cho Thành phố Đà Lạt.

+ Cấp nước nông thôn: Tổng số dân nông thôn toàn vùng được sử dụng nước hợp vệ sinh là 2.931.662 người đạt 72% tổng số dân thấp hơn trung bình so với cả nước là 8%, nếu theo Quy chuẩn 02:2009/BYT (Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt) mới đạt được 39%. Hệ thống cấp nước phổ biến bằng công trình tập trung, giếng khoan, giếng đào, lu, bể chứa... chủ yếu khai thác nước ngầm tầng nông, nước mặt để sử dụng.

+ Cấp nước cho công nghiệp tập trung: Chủ yếu từ nguồn nước mặt như khu công nghiệp Bắc An Khê lấy nước trên dòng chính Sông Ba, nhà máy mía đường Ayun Pa lấy nước từ kênh chính hữu Ayun hạ, một số khu được cấp từ nguồn khai thác nước ngầm kết hợp với cấp nước các khu đô thị.

- Hiện trạng cấp nước tưới

Tính đến năm 2013, toàn vùng Tây Nguyên đã xây dựng được 2.261 công trình thủy lợi, trong đó 1.150 hồ chứa, 942 đập dâng, 114 trạm bơm, 55 công trình khác, với diện tích tưới thiết kế 268.987 ha, diện tích tưới thực tế 202.166 ha, trong đó lúa 72.801 ha, màu 16.598 ha, cây công nghiệp 112.627 ha, so với diện tích thiết kế đạt 75,2%, so với diện tích cần tưới đạt 17,6%.

Hiện tại 1.150 hồ chứa trên địa bàn vùng Tây Nguyên đã tạo cho vùng có một dung tích trữ thiết kế đạt 1,12 tỷ m3 và dung tích hiệu ích đạt 1,02 tỷ m3. Trong đó một số công trình đáng chú ý như Hồ chứa Đắc Uy có dung tích hữu ích và dung tích trữ 26,0/29,6 triệu m3 (Kon Tum), Hồ Biển Hồ 28,50/42,00 triệu m3, Ayun Hạ 201,00/253,00 triệu m3, la Mlá 48,64/51,15 triệu m3(Gia Lai), EaSoup hạ 1,85/5,55 triệu m3, Ea Kao 13,7/17,7 triệu m3, Krông Buk hạ, Ea Nhái 10,50/11,03 (ĐăkLăk), Hồ Đa Nhim 156/165 triệu m3 (Lâm Đồng)...

Nước dưới đất là nguồn nước quan trọng trong việc tưới cây công nghiệp. Diện tích trồng cà phê nhiều nhất là ở tỉnh Đăk Lăk với diện tích năm là 202.022 ha, ở tỉnh Đăk Nông được trồng nhiều ở Cư Jút, Đăk Mil, Đăk Song, Đăk GLong, tiêu được trồng nhiều ở Chư Sê (Gia Lai) nổi tiếng trên toàn quốc. Đối với vùng Đạt Lý, Thắng Lợi nơi khai thác nước dưới đất cung cấp cho Thành phố Buôn Ma Thuột cộng thêm việc khai thác để tưới cà phê đã dẫn đến hạ thấp mực nước dưới đất đáng kể, điều này thể hiện rất rõ vào mùa khô năm 2013 vừa qua, các giếng khoan khai thác nước cấp cho Thành phố Buôn Ma Thuật đã bị cạn kiệt, tổng lưu lượng khai thác của Công ty cấp nước giảm tới 15.000 m3/ngày so với trước đây. Nhiều phường của Thành phố Buôn Ma Thuột đã phải cắt nước luân phiên 2 ngày/tuần trong các tháng IV, V năm 2013. Hàng loạt giếng đào của dân cũng bị cạn nước không thể khai thác được. Hiện nay nhiều khu vực mực nước dưới đất nhất là trong tầng chứa nước bazan, nơi phát triển mạnh mẽ cây cà phê đã suy giảm đáng kể. Trên toàn vùng, hiện diện tích cà phê được tưới bằng nguồn nước hồ đập chỉ chiếm khoảng 19,3% với mức nước tưới trung bình khoảng từ 1.500m3/ha/vụ ¸ 2.500 m3/ha/vụ.

c) Hiện trạng ngập úng và công trình tiêu úng

- Hiện trạng úng ngập:

Hàng năm một số vùng thường bị úng ngập từ tháng IX đến tháng XI, những vùng bị ngập nặng là ven sông Đăk Bla tỉnh Kon Tum thuộc lưu vực Sê San, hạ lưu sông A Yun và trung lưu sông Ba thuộc huyện Krông Pa tỉnh Gia Lai, vùng Lăk Buôn Trấp, Krông Buk hạ thuộc lưu vực Srê Pôk tỉnh Đăk Lak, vùng Ea Suop, Ea Hleo thuộc các nhánh phụ phía Tây lưu vực Srê pôk, vùng hạ lưu tràn Đơn Dương và Đa Hoai, Đa Teh tỉnh Lâm Đồng, mức độ ngập trên dưới 10.000 ha, độ sâu ngập từ 1m đến 3m, ngập trong vài ngày, sau mỗi đợt lũ.

Đăk Lăk là tỉnh thường xuyên xảy ra úng ngập và mức độ thiệt hại lớn trên địa bàn vùng Tây Nguyên. Trận lụt tháng 4/2012 gây ngập lụt gần 1585 ha lúa Đông Xuân đang ở giai đoạn trỗ, ngậm sữa và chắc xanh của các xã Buôn Tría, Buôn Triết, Đắk Liêng và Ea R’bin, trong đó, chủ yếu là diện tích lúa của 2 xã Buôn Tría và Buôn Triết (1.470,3 ha). Tổng diện tích mất trắng khoảng 1.432 ha, chiếm hơn 90%. Tổng thiệt hại ước tính khoảng 47 tỷ đồng.

- Hiện trạng các công trình tiêu úng

Hiện trạng các công trình thủy lợi phục vụ tiêu úng thoát lũ trên địa bàn vùng Tây Nguyên đến nay vẫn chưa được đầu tư xây dựng nhiều. Đến nay chỉ mới xây dựng được kênh tiêu tự chảy Bầu Dài từ đầu Buôn Tría ra Ea Đờn với nhiệm vụ tiêu cho khu vực Buôn Triết và hệ thống đê bao Quảng Điền với chiều dài 38,189 km, diện tích bảo vệ 1.780 ha trong đó có 1.125 ha đất canh tác thuộc 2 xã Quảng Điền và Đu Kmal của huyện Krông Ana chống được lũ sớm, đảm bảo sản xuất 1 vụ ăn chắc. Do kênh tiêu Bầu Dài chưa có cống đầu kênh nên khi mực nước ngoài sông Krông Ana lên cao, nước sông lại chảy ngược vào kênh nên kênh đã không phát huy được tác dụng ngay cả khi lũ tiểu mãn về.

- Hiện trạng công trình chống lũ

Hệ thống công trình hồ chứa đã được xây dựng trong vùng chủ yếu là phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các công trình quy mô lớn trong vùng như hồ la Ly, Plei Krông, Sê San 3, Sê San 4, Buôn Tua Shar, Buôn Kuop, Srepok 3, Serepok 4, Đồng Nai 2, Đồng Nai 4, An Khê - Ka Năk chủ yếu có nhiệm vụ phát điện. Một số công trình hồ chứa khác như A Yun hạ, Krông Buk hạ có nhiệm vụ tưới là chính, vai trò phòng chống lũ cho hạ du ít hiệu quả. Trên địa bàn có một số kè chống xói lở bờ như kè sông Đăk Bla (Kon Tum), kè chống sạt lở bờ sông Ba đoạn thị xã Ayun Pa (Gia Lai) và hệ thống đê bao Quảng Điền (ĐăkLăk).

d) Hiện trạng phát triển thủy điện

Hiện tại trên lưu vực sông Sê San đã xây dựng và đưa vào hoạt động các công trình: Thủy điện IaLy (720 MW), Sê san 3 (260MW), Sê san 3A (100 MW), Sê san 4 (360 mW), Sê San 4A(63MW), PlêiKrông (100 MW) có nhiệm vụ chính là phát điện và kết hợp giảm lũ cho hạ du. Công trình thủy điện Thượng Kon Tum hiện đang được xây dựng với Nlm là 220 MW. Trên dòng chính sông Ba trên địa bàn Tây Nguyên đã xây dựng xong và đưa vào khai thác sử dụng các công trình thủy điện: Thủy điện Ka Năk (13 MW), thủy điện An Khê (160 MW) có nhiệm vụ phát điện là chính kết hợp giảm lũ hạ du, cụm công trình thủy điện An Khê - Ka Năk phát điện chuyển nước sang lưu vực sông Kone thuộc tỉnh Bình Định. Trên dòng chính sông Srepok đã xây dựng và khai thác các công trình: Đray Hlinh (28MW), Thủy điện Ban Tour Shar (86 MW), Buôn Kuôp (280 MW), Srepok 3 (180 MW), Srepok 4 (80 MW), Hòa Phú (29 MW), Srêpok 4A(64MW). Lưu vực Thượng sông Đồng Nai và sông Bé thuộc tỉnh Đăk Nông và Lâm Đồng: Công trình trong hệ thống bậc thang dòng chính sông Đồng Nai, nằm trên địa phận Lâm Đồng đã và đang được xây dựng gồm 7 công trình: ĐanKia-Suối Vàng, Đa Nhim, Đại Ninh, Hàm Thuận, Đồng Nai 3, Đồng Nai 4 và Đồng Nai 2 có tổng công suất lắp máy 1.351 MW và sản lượng điện trung bình hàng năm 5.194.106 Kwh.

[...]