CHÍNH PHỦ
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số: 163/BC-CP
|
Hà Nội, ngày 01 tháng 11 năm 2010
|
BÁO CÁO QUỐC HỘI
NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VỐN, TÀI SẢN NHÀ NƯỚC TẠI CÁC TẬP ĐOÀN KINH
TẾ VÀ TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC
Thực hiện Nghị quyết
số 42/2009/QH12 ngày 27/11/2009 của Quốc hội về nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực
hiện chính sách, pháp luật quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước, Chính phủ báo cáo Quốc hội về công tác xây dựng cơ
chế, chính sách; công tác chỉ đạo điều hành và định hướng của Chính phủ trong
công tác quản lý các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thực hiện chính sách, pháp
luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước như sau:
I. CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ QUẢN
LÝ, SỬ DỤNG VỐN, TÀI SẢN NHÀ NƯỚC.
1. Công tác xây dựng chính sách, pháp luật.
a) Theo quy định của
Hiến pháp, căn cứ vào chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp
nhà nước, thời gian vừa qua Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành các văn bản
pháp luật quy định việc quản lý, sử dụng vốn tài sản nhà nước tại doanh nghiệp
nhà nước như: Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật
Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Chứng khoán...
b) Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành theo thẩm quyền các văn bản pháp quy hướng dẫn cụ
thể các văn bản pháp luật về công tác quản lý, sử dụng vốn tài sản đối với
doanh nghiệp nhà nước như:
Chính phủ đã ban
hành các Nghị định quy định về: quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước;
thành lập mới, tổ chức lại và giải thể công ty nhà nước; chuyển đổi tổng công
ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập, công ty mẹ là công ty nhà nước theo mô hình
công ty mẹ - công ty con hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; thí điểm tổ chức, hoạt
động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước; quy định cơ chế quản lý tài chính của
công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác; quy định
chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty cổ phần; chính sách về tiền lương đối
với công ty nhà nước; chính sách về giải quyết lao động dôi dư do sắp xếp lại
doanh nghiệp nhà nước; tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước ... (Phụ lục đính kèm).
c) Thực hiện Nghị
quyết số 42/2009/QH12 ngày 27/11/2009 của Quốc hội về nâng cao hiệu lực, hiệu
quả thực hiện chính sách, pháp luật quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại
các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
10/NQ-CP ngày 23/02/2010 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 42/2009/QH12 của Quốc hội nêu trên. Theo đó, Chính phủ chỉ đạo các Bộ,
ngành rà soát và triển khai tập trung xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính
sách về quản lý, quản trị doanh nghiệp, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại tập
đoàn, tổng công ty nhà nước, trong đó:
- Nghị định của
Chính phủ về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp
100% vốn nhà nước thay thế Nghị định số 132/2005/NĐ-CP ngày 20/10/2005 và Nghị
định số 86/2006/NĐ-CP ngày 21/8/2006 của Chính phủ.
Cơ quan chủ trì soạn
thảo đã triển khai nghiên cứu, hoàn chỉnh dự thảo và đã lấy ý kiến các Bộ,
ngành, địa phương, các tập đoàn, tổng công ty; đăng tải thông tin trên trang
thông tin điện tử; tiếp thu ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn,
tổng công ty và ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, cơ quan chủ trì đã trình Thủ
tướng Chính phủ theo đúng quy định. Chính phủ dự kiến lấy ý kiến các thành viên
Chính phủ và ban hành trong Quý IV/2010.
- Nghị định của
Chính phủ về quản lý tài chính đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước bao gồm
việc quản lý, đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Cơ chế quản lý, đầu
tư và kinh doanh vốn nhà nước tại doanh nghiệp là vấn đề đã được quy định tại
nhiều văn bản quy phạm pháp luật, đi kèm với nó sẽ là cơ chế quản lý tài chính
đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Trong
khi đó cơ chế quản lý tài chính lại gắn với quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
trong việc quyết định tỷ lệ huy động vốn; đầu tư vốn; mua, bán tài sản của
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, vì vậy, cơ quan chủ trì soạn thảo đang trong
quá trình xây dựng, thảo luận trước khi lấy ý kiến của các bộ, ngành, địa
phương và ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp. Chính phủ dự kiến sau khi ban hành
Nghị định về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp
100% vốn nhà nước, sẽ xem xét đề nghị của cơ quan chủ trì soạn thảo để hoàn chỉnh
dự thảo Nghị định này và dự kiến ban hành trong Quý I/2011.
- Nghị định về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Nghị định
số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ.
Cơ quan chủ trì soạn
thảo đã gửi dự thảo và sau khi lấy ý kiến các Bộ, ngành, địa phương, các tập
đoàn, tổng công ty; đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử; tiếp thu ý
kiến của các Bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn, tổng công ty và ý kiến thẩm định
của Bộ Tư pháp để hoàn chỉnh trình Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến chỉ đạo trước
khi Chính phủ lấy ý kiến các thành viên Chính phủ. Dự kiến Chính phủ ban hành
trong Quý IV/2010.
- Nghị định về tổ
chức, hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
Cơ quan chủ trì soạn
thảo đã gửi dự thảo và sau khi lấy ý kiến các Bộ, ngành, địa phương, các tập
đoàn, tổng công ty; đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử; tiếp thu ý
kiến của các Bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn, tổng công ty và ý kiến thẩm định
của Bộ Tư pháp để hoàn chỉnh trình Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến chỉ đạo trước
khi Chính phủ lấy ý kiến các thành viên Chính phủ. Dự kiến Chính phủ ban hành
trong Quý IV/2010.
- Nghị định của
Chính phủ về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp phục vụ an ninh, quốc
phòng.
Sau quá trình
nghiên cứu, soạn thảo, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 104/2010/NĐ-CP ngày
11/10/2010 về tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu trực tiếp phục vụ an ninh, quốc phòng.
- Nghị định của
Chính phủ về chế độ tiền lương đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước; chế độ
tiền lương, tiền thưởng và phụ cấp đối với người quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp có vốn nhà nước.
Cơ quan chủ trì soạn
thảo sau khi đã tiếp thu ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn, tổng
công ty và hoàn chỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến chỉ đạo trước khi
Chính phủ lấy ý kiến các thành viên Chính phủ. Dự kiến Chính phủ ban hành trong
Quý IV/2010.
- Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí, phân loại doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
Cơ quan chủ trì soạn
thảo sau khi tiếp thu ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn, tổng
công ty đã đề nghị Bộ Tư pháp thực hiện thẩm định theo đúng trình tự. Dự kiến
Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến chỉ đạo để cơ quan chủ trì soạn thảo hoàn chỉnh
trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong Quý I/2011.
- Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ về Quy chế đấu thầu đặt hàng, giao kế hoạch thực hiện sản
xuất và cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích.
Cơ quan chủ trì soạn
thảo đang lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương về những khó khăn, vướng mắc
để hoàn chỉnh dự thảo trước khi lấy ý kiến chính thức về nội dung từ các Bộ,
ngành, địa phương và thẩm định của Bộ Tư pháp. Cơ quan chủ trì soạn thảo dự kiến
trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong Quý I/2011.
- Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ về Quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước; Cơ chế giám sát tài chính đối với các tập đoàn, tổng
công ty lớn; Quy định cụ thể chế độ báo cáo và công khai, minh bạch kết quả hoạt
động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Cơ quan chủ trì soạn
thảo đang lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn, tổng công ty
trước khi đề nghị Bộ Tư pháp thực hiện thẩm định theo đúng trình tự. Dự kiến Thủ
tướng Chính phủ cho ý kiến chỉ đạo để cơ quan chủ trì soạn thảo hoàn chỉnh
trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong Quý I/2011.
- Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ về kiểm kê, đánh giá lại tài sản và vốn của doanh nghiệp
100% vốn nhà nước.
Cơ quan chủ trì soạn
thảo sau khi tiếp thu ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn, tổng
công ty và ý kiến chỉ đạo của Thường trực Chính phủ đã hoàn thiện đề án trình
Thủ tướng Chính phủ. Dự kiến Thủ tướng Chính phủ ban hành trong Quý IV/2010.
- Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ về tiêu chuẩn để lựa chọn nhân sự quản lý các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước.
Cơ quan chủ trì soạn
thảo đang triển khai lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn, tổng
công ty trước khi lấy ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp. Dự kiến cơ quan chủ trì
soạn thảo trình Thủ tướng Chính phủ để ban hành trong Quý I/2011. Đồng thời với
quy định của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chuẩn để lựa chọn nhân sự quản lý các
tập đoàn, tổng công ty nhà nước, cơ quan chủ trì cũng đang hoàn chỉnh để trình
Chính phủ sau khi tiếp thu ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn,
tổng công ty, ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp về Nghị định hướng dẫn áp dụng Luật
Cán bộ, công chức, trong đó Nghị định quy định về quyền hạn, trách nhiệm, lợi
ích, chế tài xử lý vi phạm, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ quản
lý doanh nghiệp.
- Về phê duyệt
phương án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước của các Bộ, ngành, địa
phương; các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Thủ tướng Chính phủ
đã và tiếp tục phê duyệt phương án tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước theo đề nghị của các Bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước.
Các đề án về cơ chế
chính sách nêu trên sau khi được ban hành sẽ tạo cơ sở hoàn thiện khung khổ pháp
lý cho công tác quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước, công ty mẹ; các doanh nghiệp an ninh, quốc phòng, cung ứng dịch
vụ, sản phẩm công ích do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp.
2. Công tác chỉ đạo điều hành.
a) Định kỳ, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ quản lý ngành tổng hợp, phân tích đánh
giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà
nước. Hàng năm, Chính phủ tổ chức hội nghị làm việc trực tiếp với một số tập
đoàn, tổng công ty nhà nước lớn, then chốt để chỉ đạo, tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc cho các tập đoàn, tổng công ty; định hướng hoạt động của các tập
đoàn, tổng công ty; chấn chỉnh công tác quản lý, trong đó đặc biệt là công tác
quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty xây
dựng chiến lược, kế hoạch kinh doanh trung và dài hạn; nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, bảo toàn và phát triển vốn. Đồng
thời, chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong việc kiềm chế lạm phát,
hỗ trợ các địa phương nghèo phát triển kinh tế; nâng cao trách nhiệm của tập
đoàn, tổng công ty nhà nước trong việc kích cầu đầu tư chống suy giảm kinh tế.
Chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính trong công tác quản lý đầu tư sử dụng vốn
ngân sách, vốn vay, vốn viện trợ...; cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế, hải
quan để tạo điều kiện thuận lợi cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước cũng
như các loại hình doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
b) Thực hiện ý kiến
của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp nghe và xử lý các vấn
đề vướng mắc của tập đoàn, tổng công ty. Đã kiên quyết chỉ đạo việc sắp xếp, tổ
chức lại các tập đoàn, tổng công ty kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ như: sáp
nhập Tổng công ty Xây dựng miền Trung vào Tổng công ty Đầu tư phát triển đô thị
và khu công nghiệp; Tổng công ty Muối vào Tổng công ty Lương thực miền Bắc; xử
lý các vấn đề liên quan đến Tập đoàn Vinashin... Rà soát, chỉ đạo các tập đoàn,
tổng công ty cắt giảm các dự án đầu tư ngoài ngành, tập trung vốn đầu tư vào những
lĩnh vực thuộc ngành nghề sản xuất kinh doanh chính
c) Chỉ đạo công
tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp gắn với việc xây dựng và phát triển thị trường
tài chính, thị trường chứng khoán. Đến 30/9/2010, cả nước đã sắp xếp được 5.839
doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, trong đó cổ phần hoá 3.943 doanh nghiệp
và bộ phận doanh nghiệp. Qua công tác sắp xếp, chuyển đổi sở hữu, dự kiến đến
cuối năm 2010, cả nước còn khoảng 1.200 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chủ yếu
thuộc lĩnh vực độc quyền của Nhà nước; doanh nghiệp cung ứng dịch vụ, sản phẩm
công ích; doanh nghiệp an ninh, quốc phòng; các doanh nghiệp là nông, lâm trường
hoặc các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thiết yếu cho xã hội. Hiện nay, Chính phủ
đang chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tổng kết 10 năm thực hiện sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp nhà nước.
d) Chỉ đạo việc
thanh tra, kiểm tra công tác quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh; công tác cổ
phần hoá, ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước tại một số tập đoàn, tổng công
ty nhà nước.
đ) Đã tổng kết,
báo cáo Bộ Chính trị về mô hình tập đoàn kinh tế; cơ chế, chính sách ngăn ngừa
thất thoát tài sản nhà nước; chính sách bán cổ phần cho người lao động tại
doanh nghiệp cổ phần hoá và đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp có vốn nhà nước
sau cổ phần hoá; Đề án “Tiếp tục đổi mới, củng cố phát huy vai trò của Tổng
công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước”.
Bộ Chính trị đã có
Kết luận số 45-KL/TW ngày 10/4/2009 về việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế
và cơ chế, chính sách ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước; cơ chế chính sách
bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp cổ phần hoá và đổi mới cơ chế
quản lý doanh nghiệp có vốn nhà nước sau cổ phần hoá và Kết luận số 78-KL/TW
ngày 26/7/2010 về báo cáo kết quả kiểm tra thực hiện Nghị quyết Trung ương 3,
Trung ương 9 (khoá IX) và Nghị quyết Đại hội X của Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và về đề án tiếp tục
củng cố, phát huy vai trò của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
Theo đó, Bộ Chính trị nhất trí với các giải pháp cần được quan tâm trong báo
cáo của Ban cán sự Đảng Chính phủ như: nâng cao chất lượng công tác xác định
giá trị doanh nghiệp; đổi mới chính sách bán cổ phần cho người lao động; tăng
cường công tác quản lý các doanh nghiệp sau cổ phần hoá; tái cấu trúc khu vực
doanh nghiệp nhà nước để hình thành những tập đoàn, tổng công ty nhà nước đủ mạnh
chi phối nền kinh tế; giãn tiến độ cổ phần hoá cho phù hợp, không nhất thiết phải
tập trung hoàn thành trong 2 năm 2009- 2010; hoàn thiện hệ thống pháp luật, điều
chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách đầy đủ và đồng bộ; đánh giá toàn diện hiệu quả
hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; tăng cường hiệu lực, hiệu quả
công tác chỉ đạo, quản lý, kiểm tra, giám sát đối với doanh nghiệp nhà nước; tiếp
tục củng cố mô hình Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
Nhìn chung trong
thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều cố gắng để thực hiện tốt việc quản lý nhà
nước đối với công tác quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
thực hiện chính sách pháp luật về quản lý vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp
đều bám sát chủ trương đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước của Đảng, phù hợp
với các văn bản pháp luật đã được Quốc hội ban hành, hình thành hệ thống khung
khổ pháp lý tương đối đầy đủ đảm bảo cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất
kinh doanh.
II. TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VÀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH NĂM 2009 VÀ 6
THÁNG ĐẦU NĂM 2010 CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ, TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC.
Theo số liệu báo
cáo từ 81/91 tập đoàn, tổng công ty nhà nước (không bao gồm Tập đoàn Công nghiệp
tàu thuỷ Việt Nam – Vinashin) tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh như sau:
1. Về quy mô vốn và bảo toàn vốn nhà nước:
a) Vốn chủ sở hữu
năm 2009 tại 81 tập đoàn, tổng công ty nhà nước (sau đây gọi là các tập đoàn, tổng
công ty) đạt 554.895 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2008. Trong đó các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước đặc biệt chiếm 87,1% tổng số vốn chủ sở hữu.
Đến 30/6/2010, vốn
chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty là 572.582 tỷ đồng, tăng thêm khoảng
3,8% so với thực hiện năm 2009.
b) Tổng tài sản
năm 2009 tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đạt 1.450.113 tỷ đồng, tăng
28% so với năm 2008. Trong đó các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đặc biệt chiếm
85,8% tổng số tài sản.
Đến 30/6/2010, giá
trị tổng tài sản của các tập đoàn, tổng công ty là 1.518.999 tỷ đồng, tăng khoảng
4,8% so với thực hiện năm 2009.
2. Về nợ phải trả:
Nợ phải trả của
các tập đoàn, tổng công ty năm 2009 là 813.435 tỷ đồng, gấp 1,5 lần vốn chủ sở
hữu, bằng 0,58 lần so với tổng tài sản. Nhìn tổng thể các tập đoàn, tổng công
ty đảm bảo tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu (1,5 lần so với quy định 3 lần).
3. Về kết quả kinh doanh:
a) Về Doanh thu:
- Tổng doanh thu
năm 2009 của các tập đoàn, tổng công ty đạt: 1.099.288 tỷ đồng, bằng 115% so với
kế hoạch năm 2009, tăng 18,9% so với năm 2008. Trong đó, các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước đặc biệt đạt 863.851 tỷ đồng, vượt 14,5% kế hoạch năm và tăng
15,1% so với năm 2008.
- Doanh thu của
các tập đoàn, tổng công ty đến 30/6/2010 đạt 732.761 tỷ đồng, bằng 58,6% so với
kế hoạch năm 2010. Trong đó 10 tập đoàn đạt 490.140 tỷ đồng và 11 tổng công ty
đặc biệt đạt 112.679 tỷ đồng.
b) Về lợi nhuận:
- Tổng lợi nhuận
trước thuế năm 2009 của các tập đoàn, tổng công ty đạt: 97.622 tỷ đồng, bằng
109% so với kế hoạch năm 2009, tăng 10% so với thực hiện năm 2008. Trong đó các
tập đoàn, tổng công ty nhà nước đặc biệt lợi nhuận đạt 82.751 tỷ đồng, bằng
108% kế hoạch năm 2009 và chiếm 84,7% tổng lợi nhuận của các tập đoàn, tổng
công ty.
- Lợi nhuận của
các tập đoàn, tổng công ty đến 30/6/2010 đạt 43.865 tỷ đồng, bằng 51% so với kế
hoạch năm 2010. Trong đó 10 tập đoàn đạt 33.021 tỷ đồng và 11 tổng công ty đặc
biệt đạt 4.664 tỷ đồng.
c) Về thu nộp ngân
sách nhà nước:
- Tổng nộp ngân
sách năm 2009 của các tập đoàn, tổng công ty đạt: 189.467 tỷ đồng (bao gồm tiền
thu từ dầu thô hơn 66 nghìn tỷ đồng của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam), bằng
142% so với kế hoạch năm 2009 (nếu loại số tiền thu dầu thì tăng 151% so với kế
hoạch), tăng 4% so với thực hiện năm 2008. Trong đó các tập đoàn, tổng công ty
đặc biệt đạt 147.286 tỷ đồng, bằng 144% kế hoạch năm 2009.
- Tổng số thu nộp
ngân sách 6 tháng đầu năm 2010 của các tập đoàn, tổng công ty là 97.671 tỷ đồng,
bằng 58,2% so với kế hoạch năm 2010.
4. Về kim ngạch xuất nhập khẩu:
a) Về xuất khẩu:
- Suy thoái kinh tế
toàn cầu cuối năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 ảnh hưởng không nhỏ đến xuất
khẩu hàng hoá của Việt Nam, nhiều tập đoàn, tổng công ty bị khách hàng huỷ hợp
đồng dẫn đến sản lượng, doanh thu xuất khẩu giảm.. Năm 2009 giá trị kim ngạch
xuất khẩu của các tập đoàn, tổng công ty chỉ đạt 14,227 tỷ USD, giảm 20% so với
thực hiện năm 2008.
- Giá trị kim ngạch
xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2010 của các tập đoàn, tổng công ty đạt 7,937 tỷ USD,
bằng 58,2% so với kế hoạch năm.
b) Về nhập khẩu:
- Cùng với sự suy
thoái của kinh tế thế giới, sản xuất trong nước gặp rất nhiều khó khăn, tiêu
dùng chưa khởi sắc.. việc nhập khẩu máy móc thiết bị, hàng hoá của các tập
đoàn, tổng công ty năm 2009 cũng giảm đáng kể so với thực hiện năm 2008. Theo số
liệu báo cáo từ 38 tập đoàn, tổng công ty thực hiện nhập khẩu, hàng hoá, máy
móc thiết bị, giá trị kim ngạch nhập khẩu năm 2009 là: 7.163 tỷ USD, giảm 5% so
với kế hoạch năm và giảm 36,6% so với thực hiện năm 2008.
Hàng hoá, máy móc,
thiết bị phụ trợ được nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu hàng dệt may; xăng, dầu;
hoá chất; nguyên liệu phụ trợ sản xuất thép, xi măng, hoá mỹ phẩm; thuốc...
- 6 tháng đầu năm
2010, kim ngạch nhập khẩu các tập đoàn, tổng công ty là 5,174 tỷ USD, bằng
52,1% kế hoạch năm.
5. Về đầu tư ra nước ngoài:
Theo báo cáo tính
đến 31/12/2009, có 16 tập đoàn, tổng công ty đầu tư ra nước ngoài với giá trị
là 3.888 triệu USD (tương đương khoảng 69.612 tỷ đồng Việt Nam theo tỷ giá tạm
tính bình quân là 17.900 đồng/1USD), trong đó có 07 tập đoàn đầu tư là 3.859
triệu USD (khoảng 69.078 tỷ đồng Việt Nam), chiếm 99,2% tổng số vốn đầu tư ra
nước ngoài của 16 tập đoàn, tổng công ty.
Lĩnh vực đầu tư ra
nước ngoài của các tập đoàn là: tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở Nga,
Trung đông và Châu Phi, Venezuela (Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam); đầu tư
phát triển mạng lưới viễn thông ở Lào, Camphuchia (Tập đoàn Viễn thông quân đội);
đầu tư dịch vụ viễn thông ở Hông Kông, đầu tư sản xuất vật tư, thiết bị viễn
thông ở Lào (Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam); đầu tư phát triển trồng
cây cao su ở Lào, Camphuchia (Tập đoàn Cao su Việt Nam); đầu tư khai thác
khoáng sản tại Lào, Camphuchia (Tập đoàn Công nghiệp Than khoáng sản Việt Nam);
đầu tư vào lĩnh vực điện ở Lào (Tập đoàn Sông Đà)...
Tính đến
30/6/2010, đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn, tổng công ty là 3.987 triệu
USD (khoảng 71.380 tỷ đồng Việt Nam), tăng 128 triệu USD (khoảng 1.768 tỷ đồng
Việt Nam) so với 31/12/2009. Trong đó có 07 tập đoàn đầu tư là 3.897 triệu USD
(khoảng 69.764 tỷ đồng Việt Nam), chiếm 97,7% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài
của 16 tập đoàn, tổng công ty. Giá trị tăng thêm chủ yếu do Tổng công ty Hàng
không Việt Nam đầu tư góp vốn thành lập hãng hàng không quốc gia tại
Camphuchia.
III. VỀ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VỐN, TÀI SẢN
NHÀ NƯỚC CỦA CÁC TẬP ĐOÀN, TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC.
Hiện nay, cả nước
có 91 tập đoàn, tổng công ty nhà nước, trong đó có 11 tập đoàn kinh tế nhà nước,
11 tổng công ty đặc biệt. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước giữ vai trò quan
trọng, là nòng cốt trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thời gian qua,
các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã có sự đổi mới về năng lực sản xuất, hiệu
quả hoạt động, giữ được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế.
Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vừa thực hiện sản xuất kinh doanh cạnh
tranh theo pháp luật vừa phải thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đảng và Nhà nước
giao.
1. Về thực hiện nhiệm vụ chính trị:
Để giữ vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế, Chính phủ đã chỉ đạo giữ chi phối,
bảo đảm việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ thiết yếu của
nền kinh tế đối với một số lĩnh vực như: điện, than, xăng dầu, xi măng, thép,
lương thực…
Các tập đoàn, tổng
công ty đóng vai trò quan trọng trong việc bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát, đảm
bảo ổn định xã hội, ngăn ngừa sự suy giảm kinh tế, giữ vững tăng trưởng kinh tế.
Các tập đoàn, tổng công ty góp phần chủ lực bảo đảm an sinh xã hội, duy trì việc
làm cho người lao động, không để xảy ra đình công, bảo đảm thu nhập cho người
lao động. Các tập đoàn, tổng công ty cũng chú trọng đầu tư các dự án phát triển
cơ sở hạ tầng, thực hiện các nhiệm vụ công ích ở các vùng có điều kiện kinh tế
- xã hội khó khăn (như Tây Nguyên, Tây Bắc, Miền Trung,...), hỗ trợ các địa
phương nghèo. Các tập đoàn, tổng công ty tích cực tham gia trong việc triển
khai hỗ trợ khó khăn cho các huyện nghèo trên cả nước.
Các tập đoàn, tổng
công ty thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao đầu tư những dự án trọng điểm, quan
trọng phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn của đất nước, những
dự án lớn hoặc hiệu quả về kinh tế thấp nhưng ý nghĩa chính trị và hiệu quả về
xã hội lớn mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không làm hoặc
không có đủ khả năng làm, đặc biệt những dự án có ý nghĩa quan trọng trong việc
chuyển dịch, thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế vùng miền theo hướng công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước như Tập đoàn Dầu khí đầu tư vào Nhà máy lọc dầu Dung
Quất tại Quãng Ngãi; Tập đoàn Điện lực Việt Nam đầu tư thuỷ điện Sơn La, Lai
Châu, đầu tư phát triển mạng lưới điện ở Tây Nguyên và các tỉnh miền núi, khó
khăn; Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Viễn thông quân đội phát
triển hệ thống thông tin liên lạc về các vùng sâu vùng xa…
2. Về công tác quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước:
Hệ thống cơ chế,
chính sách quản lý tài chính đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hiện nay cơ
bản đã thống nhất và bình đẳng với các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước. Các
doanh nghiệp trong và ngoài khu vực Nhà nước đang áp dụng chung chính sách thuế,
đầu tư, tín dụng. Các tập đoàn, tổng công ty được nâng cao quyền chủ động sử dụng
vốn nhà nước và các loại vốn khác vào hoạt động kinh doanh; chịu trách nhiệm về
bảo toàn, phát triển vốn, hiệu quả sử dụng vốn. Cơ chế, chính sách của Nhà nước
cũng hướng các tập đoàn, tổng công ty tập trung vốn vào các lĩnh vực thuộc
ngành nghề kinh doanh chính, hạn chế việc sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào các
lĩnh vực nhạy cảm, rủi ro cao. Những kết quả đạt được về nhiệm vụ chính trị nói
riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung trong những năm vừa qua đã khẳng
định các tập đoàn, tổng công ty giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong
nền kinh tế, là công cụ của Chính phủ để điều tiết nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động của hầu
hết các tập đoàn, tổng công ty nhà nước có hiệu quả, đóng góp cho ngân sách nhà
nước, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tỷ
suất lợi nhuận (trước thuế) trên vốn chủ sở hữu bình quân năm 2009 là 17,5%; nộp
ngân sách nhà nước tăng 4% so với thực hiện năm 2008; vốn chủ sở hữu năm 2009
tăng 19% so với năm 2008.
Quy mô hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty được nâng cao dần qua
các năm. Trước năm 2006 khi chưa hình thành mô hình tập đoàn kinh tế, năng lực
tài chính cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của các Tổng công ty 91 chưa cao
(vốn chủ sở hữu khoảng 180 – 200 nghìn tỷ đồng; tài sản khoảng 500 – 550 nghìn
tỷ đồng; doanh thu khoảng 320 – 360 nghìn tỷ đồng; lợi nhuận trước thuế khoảng
38 – 40 nghìn tỷ đồng; nộp ngân sách từ 50 – 55 nghìn tỷ đồng). Tuy nhiên từ
năm 2006 đến nay, năng lực tài chính và hiệu quả hoạt động của các tập đoàn và
các tổng công ty đặc biệt đã lớn mạnh. Tính đến năm 31/12/2009, vốn chủ sở hữu
của các tập đoàn, tổng công ty đặc biệt là 483 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 140%
so với trước năm 2006; tổng tài sản đạt 1.242 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 125%;
doanh thu đạt 863 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 139%; lợi nhuận 82 nghìn tỷ đồng,
tăng khoảng 105%; nộp ngân sách 148 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 141%.
3. Những hạn chế, tồn tại:
Chức năng đại diện
chủ sở hữu vốn còn phân tán, chồng chéo nên trách nhiệm trong quản lý cũng chưa
rõ ràng. Những sai phạm trong việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước thường
được phát hiện sau khi thanh tra, kiểm tra tại các tập đoàn, tổng công ty hoặc
có khiếu nại, tố cáo. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nhà nước đối với
tập đoàn, tổng công ty cũng còn chồng chéo phần nào đã ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty.
Công tác quản lý,
điều hành của nhiều tập đoàn, tổng công ty còn có sự hạn chế; chậm thay đổi để
phù hợp so với yêu cầu quản trị doanh nghiệp theo cơ chế thị trường và xu thế hội
nhập; trong quản trị doanh nghiệp còn mang tính chủ quan, duy ý chí, quan liêu.
Nhiều tập đoàn, tổng công ty chậm đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ, chưa thực
sự năng động trong việc cạnh tranh, tiếp cận thị trường đối với hàng hoá, sản
phẩm của mình, chưa chú trọng phát triển nguồn nhân lực chuyên nghiệp, có tay
nghề cao. Quy mô và tốc độ tăng vốn chủ sở hữu tại một số tổng công ty nhỏ và
chậm, vẫn còn một số tổng công ty hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả thấp,
kinh doanh thua lỗ.
Nhiều dự án, công
trình xây dựng theo chỉ đạo của Nhà nước sử dụng vốn ngân sách để thực hiện,
nhưng chậm được thanh toán, trong khi vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh phải
đi vay nên hiệu quả thấp hoặc không có hiệu quả. Hiệu quả hoạt động chưa tương
xứng với quy mô đầu tư của Chính phủ, còn để tình trạng lãng phí trong đầu tư
như chậm hoàn thành các dự án đầu tư trọng điểm tại các lĩnh vực năng lượng,
giao thông, cảng biển,...
Do yêu cầu chống lạm
phát cũng như chống suy giảm kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và đời sống
của nhân dân, nhiều mặt hàng chưa được thực hiện mua, bán theo giá thị trường
nên ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty.
Việc huy động quá
nhiều vốn để thực hiện đầu tư, đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, thành lập nhiều
công ty con, công ty liên kết hoạt động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề của một
số tập đoàn, tổng công ty trong khi năng lực quản lý và khả năng tài chính có hạn
đã dẫn tới hệ số nợ/vốn chủ sở hữu cao, ảnh hưởng không tốt đến năng lực tài
chính và hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu
bình quân hiện tại của các tập đoàn, tổng công ty thấp hơn mức 3 lần theo quy định
của Chính phủ. Tuy nhiên vẫn có một số tập đoàn, tổng công ty huy động số vốn lớn
để đầu tư các dự án nên có tỷ lệ huy động vốn (nợ) trên vốn chủ sở hữu cao, ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo toàn vốn theo quy định của Chính phủ.
Một số tập đoàn, tổng
công ty trong những năm vừa qua tham gia góp vốn vào ngân hàng thương mại cổ phần,
công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản với số tiền
khá lớn. Tính đến cuối năm 2009, tỷ lệ đầu tư vào những lĩnh vực này đã dần đảm
bảo theo quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư trong những lĩnh vực
này chưa thực sự hợp lý khi nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính
còn hạn chế. Mặt khác việc đầu tư vào những tổ chức này chủ yếu là đầu tư dài hạn
nên không hiệu quả trong ngắn hạn, nhất là trong thời gian khủng hoảng tài
chính toàn cầu từ nửa cuối năm 2008 cho đến nay.
Việc tuân thủ các
quy định của Nhà nước trong công tác quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại
nhiều tập đoàn, tổng công ty chưa cao, biểu hiện ở chế độ báo cáo thường xuyên,
định kỳ chưa đầy đủ, không đúng thời gian quy định. Chất lượng không đảm bảo
yêu cầu, thiếu chỉ tiêu để thực hiện so sánh, đánh giá việc sử dụng vốn, tài sản
nhà nước. Đầu tư ra ngoài doanh nghiệp vẫn còn dàn trải, chưa tập trung vào
ngành nghề kinh doanh chính hoặc chủ yếu.
Chưa có đầy đủ chế
tài và chưa kiên quyết xử lý những doanh nghiệp không báo cáo đầy đủ, kịp thời
hoặc nhiều năm liên tục có sai sót trong công tác quản lý, điều hành, bị xếp loại
doanh nghiệp không hoàn thành nhiệm vụ, làm giảm hiệu lực pháp lý của các chế
tài đã được Nhà nước quy định. Đồng thời chưa thực sự gắn năng lực lãnh đạo với
vị trí công tác nên một số tổng công ty kinh doanh thua lỗ liên tục, kéo dài
nhưng Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc không bị xử lý trách nhiệm, miễn nhiệm
hoặc bị cách chức.
IV. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TẬP ĐOÀN, TỔNG
CÔNG TY NHÀ NƯỚC.
1. Về chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ:
- Chỉ đạo các Bộ,
ngành tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành cơ chế, chính sách, pháp
luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước cho doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
Trước mắt, Chính phủ sẽ ban hành Nghị định về quản lý tài chính bao gồm cả việc
quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Sau một thời gian thực
hiện, Chính phủ sẽ chỉ đạo tổng kết, rút kinh nghiệm để nghiên cứu, xây dựng
trình Quốc hội ban hành Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
- Chỉ đạo các Bộ,
ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hội đồng
thành viên các tập đoàn, tổng công ty nhà nước quán triệt sâu sắc các Nghị quyết
của Đảng, kết luận của Bộ Chính trị về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, định hướng
phát triển và các giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả và
vị trí của doanh nghiệp nhà nước.
- Thống nhất cơ
quan thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
Phân định rõ và tách chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước của các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước với chức năng quản lý nhà nước của các Bộ, ngành,
các địa phương.
- Chỉ định một cơ
quan làm đầu mối chịu trách nhiệm chính, thực hiện nhiệm vụ theo dõi, tổng hợp
tình hình quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước và phân tích, đánh giá hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
- Chỉ đạo tăng cường
công tác giám sát, kiểm tra tài chính để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tài sản
nhà nước tại doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
- Chỉ đạo đánh giá
toàn diện hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Kịp thời
khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích, đồng thời xử lý nghiêm các cá
nhân có sai phạm.
- Chấn chỉnh tình
trạng tập đoàn, tổng công ty nhà nước đầu tư, mở rộng ngành nghề mới không liên
quan đến ngành nghề kinh doanh chính.
- Kiên quyết sắp xếp,
xử lý doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài; đối với doanh nghiệp tạm thời khó
khăn có phương án củng cố, cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính
để ổn định và phát triển.
- Tiếp tục đẩy mạnh
sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, chỉ giữ lại những tập đoàn, tổng
công ty, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước có quy mô lớn; các doanh nghiệp còn lại
thực hiện cổ phần hoá hoặc các hình thức sắp xếp khác thích hợp. Kiên quyết giải
thể, phá sản các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thua lỗ, mất vốn Nhà nước.
2. Đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước:
- Tiếp tục xác định
vị trí, vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước; công ty mẹ; các doanh nghiệp an ninh, quốc phòng,
cung ứng dịch vụ, sản phẩm công ích do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ có
trách nhiệm sản xuất, cung ứng các sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ thiết yếu cho
nền kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững.
- Các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển 5 năm và phương án sản xuất
kinh doanh hàng năm trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Rà soát lại
ngành nghề kinh doanh, danh mục đầu tư, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động để
điều chỉnh cho phù hợp với nhiệm vụ chính được giao và chiến lược phát triển của
tập đoàn, tổng công ty.
- Tập trung nguồn
vốn đầu tư các công trình trọng điểm để phát huy tối đa hiệu quả các dự án,
công trình phục vụ phát triển kinh tế xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế
của đất nước. Cắt giảm hoặc dừng việc mua, xây dựng trụ sở mới, đất đai, bất động
sản, phương tiện, thiết bị phục vụ gián tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh
để tập trung nguồn lực cho các dự án có hiệu quả, cần thiết cho xã hội. Hàng
năm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn (bao gồm cả vốn vay) để kịp thời có biện pháp
chấn chỉnh đối với những trường hợp sử dụng vốn không có hiệu quả.
- Thực hiện các biện
pháp tiết giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, thúc đẩy tiêu dùng trong nước. Củng cố năng lực quản trị doanh
nghiệp, tăng cường kiểm soát rủi ro tài chính để kịp thời có biện pháp phòng ngừa
và hạn chế rủi ro. Chủ động đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm và
mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Đào tạo, xây dựng
đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, có trình độ, tay nghề cao, quản lý giỏi; có chế độ
thu hút người giỏi tham gia điều hành doanh nghiệp.
Trên đây là nội
dung Báo cáo của Chính phủ về nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách,
pháp luật quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước.
Kính trình Quốc hội
xem xét, cho ý kiến chỉ đạo./.
Nơi nhận:
- Đại biểu Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chính phủ;
- Bộ Nội vụ;
- Bộ Kế hoạch và đầu tư;
- Bộ Lao động TB & XH;
- Bộ Tài chính;
- Lưu : VT, KTTH. 800
|
TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Vũ Văn Ninh
|
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHÍNH SÁCH VỀ QUẢN LÝ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. DANH MỤC CHÍNH PHỦ BAN HÀNH:
1. Nghị định số
132/2005/NĐ-CP ngày 20/10/2005 về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
nhà nước đối với công ty nhà nước; Nghị định số 86/2006/NĐ-CP ngày 21/8/2006 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 132/2005/NĐ-CP ngày 20/10/2005;
2. Nghị định số
180/2004/NĐ-CP ngày 28/10/2004 về thành lập mới, tổ chức lại và giải thể công
ty nhà nước;
3. Nghị định số 111/2007/NĐ-CP
ngày 26/6/2007 về tổ chức, quản lý tổng công ty nhà nước và chuyển
đổi tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập, công ty mẹ là công ty nhà
nước theo hình thức công ty mẹ - công ty con hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
4. Nghị định số
101/2009/NĐ-CP ngày 5/11/2009 thí điểm tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn
kinh tế nhà nước;
5. Nghị định số
09/2009/NĐ-CP ngày 5/02/2009 ban hành Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà
nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác;
6. Nghị định số
109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành
công ty cổ phần;
7. Nghị định số
110/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp
lại công ty nhà nước;
8. Nghị định số
25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên và tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu;
9. Nghị định số
31/2005/NĐ-CP ngày 11/3/2005 về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công
ích;
10. Nghị định
109/2008/NĐ-CP ngày 10/10/2008 về bán, giao doanh nghiệp 100% vốn nhà nước;
11. Nghị định số
205/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 quy định hệ thống thang lương, bảng lương và chế
độ phụ cấp lương trong các công ty nhà nước;
12. Nghị định số
206/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 quy định quản lý lao động, tiền lương và thu nhập
trong các công ty nhà nước;
13. Nghị định số
207/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 quy định chế độ tiền lương, tiền thưởng và chế đọ
trách nhiệm đối với các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc
công ty nhà nước;
II. DANH MỤC THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ BAN HÀNH:
1. Quyết định số
38/2007/QĐ-TTg ngày 20/3/2007 về ban hành tiêu chí, phân loại doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước;
2. Quyết định số
224/2006/QĐ-TTg ngày 6/10/2006 về ban hành Quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả
của doanh nghiệp nhà nước;
3. Quyết định số
256/2006/QĐ-TTg ngày 9/11/2006 ban hành Quy chế đấu thầu đặt hàng, giao kế hoạch
thực hiện sản xuất và cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích;
4. Quyết định số
151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 về thành lập Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn
nhà nước;
5. Quyết định số
113/2008/QĐ-TTg ngày 18/8/2008 về thành lập và ban hành Quy chế quản lý Quỹ hỗ
trợ sắp xếp doanh nghiệp Trung ương;