Điều này được hướng dẫn bởi Điều 11 Tiết 3 Chương I Nghị định 188-TTg năm 1958 có hiệu lực từ ngày 24/04/1958
Điều 1. - Nghị định này quy định chi tiết thi hành Luật công đoàn về quan hệ giữa các cấp chính quyền. Giám đốc xí nghiệp, thủ trưởng cơ quan Nhà nước và các chủ xí nghiệp tư bản tư doanh với tổ Chức công đoàn, với công nhân, viên chức, nhằm tạo điều kiện cho giai cấp công nhân phát triển và củng cố tổ chức của mình, phát huy tác dụng tích cực của Công đoàn trong công cuộc xây dựng chính quyền, kiến thiết kinh tế, phát triển văn hóa.
Chương 1: TRÁCH NHIỆM VÀ QUYỀN HẠN CỦA CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC, QUẢN LÝ XÍ NGHIỆP
...
TIẾT 3. – CÔNG ĐOÀN Ở CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC:
...
Điều 11. – Trong cơ quan Nhà nước, khi cán bộ, viên chức phát hiện những hiện tượng lãng phí, tham ô và những thiếu sót quan trọng làm tổn hại đến quyền lợi của Nhà nước hoặc của cán bộ, viên chức, Ban chấp hành công đoàn, sau khi xác nhận, có quyền đề nghị với thủ trưởng cơ quan kiểm tra và thi hành những biện pháp cần thiết để giải quyết. Sau đó thủ trưởng cơ quan tùy từng trường hợp báo cáo kết quả việc thi hành những biện pháp ấy trước Ban chấp hành công đoàn, hoặc trước Hội nghị toàn thể hoặc hội nghị đại biểu cán bộ, viên chức, hoặc trước bộ phận cán bộ, viên chức có liên quan.
Xem nội dung VBĐiều này được hướng dẫn bởi Mục II Thông tư 09-LĐ/TT-1977 có hiệu lực từ ngày 29/04/1977
Nghị quyết số 76-CP ngày 25-3-1977 của Hội đồng Chính phủ đã ban hành danh mục các văn bản luật lệ hiện hành được thi hành trong cả nước, trong đó có Luật công đoàn.
Nay nhất trí với Tổng công đoàn Việt Nam, Bộ Lao động hướng dẫn thi hành Luật công đoàn và nghị định của Thủ tướng Chính phủ số 188-TTg ngày 9-4-1958 quy định chi tiết thi hành Luật ấy trong các xí nghiệp tư bản tư doanh (1). Thông tư này thay thế thông tư số 26-LĐ/TT ngày 1-10-1958 của Bộ Lao động .
...
II. THỰC HIỆN QUYỀN GIÁM SÁT CỦA CÔNG ĐOÀN VÀ CỦA NGƯỜI LÀM CÔNG
1. Nội dung giám sát của công đoàn và của người làm công.
a) Giám sát sản xuất, kinh doanh theo đăng ký với Nhà nước, tận dụng năng lực sản xuất của xí nghiệp để phát triển sản xuất, quản lý tốt máy móc, thiết bị, vật tư, sử dụng quỹ khấu hao cơ bản và quỹ tích lũy đúng quy định, nộp đủ thuế và đúng thời hạn, sản xuất đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, v.v… chống mọi hành động phân tán tài sản, gây đình trệ sản xuất, đầu cơ tích trữ, khai man năng lực sản xuất, trốn thuế, lậu thuế, làm hàng giả, hàng xấu, đổi nguyên vật liệu xấu lấy nguyên vật liệu tốt, kê khai giá thành không đúng, tăng giá hàng trái phép, giao hàng không đủ và không đúng thời hạn v.v…
Ban chấp hành công đoàn xí nghiệp giám sát việc thực hiện các hợp đồng kinh tế giữa cơ quan Nhà nước (hoặc tổ chức tập thể) và chủ xí nghiệp từ việc chuẩn bị ký kết, bổ sung sửa đổi đến cả quá trình thực hiện. Các bản dự thảo hợp đồng kinh tế phải gửi đến Ban chấp hành công đoàn xí nghiệp ít nhất 7 ngày trước khi ký kết. Cơ quan Nhà nước và chủ xí nghiệp phải coi trọng ý kiến của Ban chấp hành công đoàn và thường xuyên thông báo cho Ban chấp hành công đoàn về kết quả thực hiện hợp đồng.
b) Giám sát việc thi hành các chính sách, luật pháp của Nhà nước về lao động, chế độ tuyển dụng và cho thôi việc, chế độ đối với người học nghề, thời gian làm việc và nghỉ ngơi, chế độ tiền lương và các hình thức trả lương, các chế độ tiền thưởng, chế độ trợ cấp, phụ cấp và trích lợi nhuận của xí nghiệp lập quỹ phúc lợi tập thể, chế độ bảo hộ lao động, chế độ bảo hiểm xã hội, các hợp đồng lao động cá nhân, v.v…
Khi chủ xí nghiệp tuyển dụng người làm công, hoặc cho người làm công thôi việc, phải được sự đồng ý của Ban chấp hành công đoàn.
Đối với những trường hợp có nguy cơ xảy ra tai nạn làm thiệt hại sản xuất hoặc tính mạng người làm công, Ban chấp hành công đoàn có quyền yêu cầu chủ xí nghiệp ra lệnh tạm thời đình chỉ ngay bộ phận đang làm và thi hành các biện pháp an toàn cần thiết, đồng thời báo cáo ngay cho cơ quan lao động địa phương. Nhận được báo cáo của công đoàn, cơ quan lao động phải tức khắc tới kiểm tra và chỉ thị cho chủ xí nghiệp có biện pháp giải quyết thiết thực và tùy trường hợp, có thể ra lệnh đình chỉ hoạt động ngay bộ phận có thể gây tai nạn nghiêm trọng đó nếu thấy vẫn còn hoạt động.
2. Các hình thức giám sát của công đoàn và của người lao động.
a) Hội nghị những người làm công.
Công đoàn tổ chức và lãnh đạo hội nghị những người làm công. Những xí nghiệp có dưới 150 người, thì họp toàn thể những người làm công; những xí nghiệp có trên 150 người thì họp hội nghị đại biểu. Các ủy viên Ban chấp hành công đoàn xí nghiệp là đại biểu đương nhiên. Khi cần thiết, Ban chấp hành công đoàn xí nghiệp có thể mời đại biểu công đoàn cấp trên, hoặc cơ quan Nhà nước tham dự.
Mục đích hội nghị là nhằm phát huy quyền làm chủ tập thể của những người làm công, góp ý kiến với chủ xí nghiệp về những việc làm đã qua và các biện pháp thực hiện trong thời gian sắp tới. Tùy tình hình mà hội nghị bàn một hoặc nhiều vấn đề sau đây:
- Việc thực hiện các kế hoạch, hợp đồng kinh tế, hợp đồng lao động tập thể đã ký kết.
- Việc thi hành các chính sách, luật pháp của Nhà nước về sản xuất kinh doanh, về lao động…
- Việc sử dụng quỹ phúc lợi tập thể của xí nghiệp.
- Các vấn đề do công đoàn cấp trên, hoặc cơ quan Nhà nước yêu cầu phải lấy ý kiến những người làm công.
Để tiến hành tốt hội nghị những người làm công hoặc đại biểu người làm công, chủ xí nghiệp có trách nhiệm chuẩn bị báo cáo những vấn đề mà Ban chấp hành công đoàn yêu cầu. Ban chấp hành công đoàn báo cáo về việc dùng quỹ phúc lợi tập thể của xí nghiệp. Báo cáo của chủ xí nghiệp gửi trước cho Ban chấp hành công đoàn để nghiên cứu, góp thêm ý kiến.
Chủ xí nghiệp có trách nhiệm trả lời những ý kiến của hội nghị. Hội nghị phải có kết luận và ghi vào biên bản. Đại diện Ban chấp hành công đoàn và chủ xí nghiệp cùng ký vào biên bản. Hội nghị cần chú ý các vấn đề sau đây:
- Đối với những ý kiến thiết thực nhằm khắc phục khó khăn trong sản xuất, hoặc những sáng kiến hợp lý hóa sản xuất cải tiến kỹ thuật… thì chủ xí nghiệp tiếp thu để thực hiện.
- Đối với những vấn đề thực hiện kế hoạch, hợp đồng kinh tế, hợp đồng lao động tập thể, việc thi hành các chính sách, luật lệ, chế độ của Nhà nước mà hội nghị những người làm công đã thảo luận, góp ý kiến nhưng chủ xí nghiệp và những người làm công còn có ý kiến khác nhau, thì sau hội nghị, Ban chấp hành công đoàn và chủ xí nghiệp tiếp tục bàn bạc. Khi cần Ban chấp hành công đoàn xí nghiệp báo cáo lên công đoàn cấp trên, cơ quan lao động địa phương và các cơ quan Nhà nước khác để giải quyết.
- Đối với quỹ phúc lợi tập thể của xí nghiệp, hội nghị những người làm công thảo luận và quyết định kế hoạch sử dụng. Chủ xí nghiệp với sự giúp đỡ của Ban chấp hành công đoàn tổ chức thực hiện.
- Hội nghị những làm công họp 6 tháng một lần vào đầu năm và giữa năm. Hội nghị họp vào ngày nghỉ hàng tuần. Có thể lấy một nửa thì giờ trong giờ làm việc nhưng phải đảm bảo sản xuất bình thường. Bất kỳ trường hợp nào cũng không được ngừng sản xuất để hội họp. Tất cả các cuộc họp phải được chuẩn bị kỹ, ngắn gọn không làm mất thì giờ sản xuất và điều hành của công nhân và chủ xí nghiệp.
b) Ký kết hợp đồng lao động tập thể.
Căn cứ vào chính sách, chế độ lao động của Nhà nước, Ban chấp hành công đoàn xí nghiệp phổ biến cho những người làm công hiểu rõ nội dung hợp đồng; đồng thời vận động những người làm công thực hiện tốt phần trách nhiệm của mình và giám sát việc thực hiện các điều cam kết của chủ xí nghiệp.
c) Hội nghị giữa Ban chấp hành công đoàn và chủ xí nghiệp.
Hàng tháng, hàng quý, Ban chấp hành công đoàn và chủ xí nghiệp xem xét tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, tình hình thực hiện hợp đồng kinh tế, hợp đồng lao động, tình hình thi hành bản quy định quan hệ chủ thợ, việc thi hành các chính sách, luật pháp của Nhà nước nếu thấy có điều gì thiếu sót thì sửa chữa hoặc bổ sung kịp thời.
Mỗi kỳ họp phải ghi biên bản. Đại diện Ban chấp hành công đoàn và chủ xí nghiệp cùng ký vào biên bản.
Sau mỗi lần họp, Ban chấp hành công đoàn xí nghiệp thông báo cho những người làm công biết nội dung và kết quả.
Ngoài ra, khi cần thiết, Ban chấp hành công đoàn có thể yêu cầu chủ xí nghiệp, hoặc từng người trực tiếp phụ trách từng phần việc của xí nghiệp (như kế toán, thủ kho, nhân viên kỹ thuật, y tế, v.v…) báo cáo tình hình các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo hộ lao động, v.v..
d) Quyền kiểm tra của công nhân.
Khi cần thiết, Ban chấp hành công đoàn tổ chức những người làm công thành từng tổ để kiểm tra tình hình xí nghiệp. Thành phần mỗi tổ kiểm tra gồm một ủy viên Ban chấp hành công đoàn xí nghiệp và từ hai đến ba người làm công am hiểu vấn đề.
Các tổ này kiểm tra những vấn đề do Ban chấp hành công đoàn xí nghiệp định như: tình hình sản xuất, bảo bộ lao động, tổ chức ăn, ở, khám, chữa bệnh, v.v…trong xí nghiệp. Kiểm tra việc gì, phải làm biên bản và báo cáo kết quả với công nhân.
Qua kiểm tra, Ban chấp hành công đoàn góp ý kiến với chủ xí nghiệp về các vấn đề cần khắc phục, đồng thời thông báo cho những người làm công biết. Những việc thật cần thiết mới kiểm tra trong giờ làm việc và không được quá một ngày do chủ trả lương nếu là vấn đề thuộc lợi ích sản xuất.
đ) Công đoàn cấp trên kiểm tra.
Khi đại diện công đoàn cấp trên đến kiểm tra việc thi hành Luật công đoàn, chủ xí nghiệp có nhiệm vụ giúp đỡ họ làm tròn trách nhiệm.
Xem nội dung VB