Trong bài “Chống lãng phí”, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Phòng, chống lãng phí là cuộc chiến chống “giặc nội xâm” cam go, phức tạp; gắn với đấu tranh giai cấp, ngang tầm chống tham nhũng, tiêu cực, nhằm xây dựng Đảng ta, “là đạo đức, là văn minh”
Nội dung chính
Trong bài viết “Chống lãng phí”, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: Cần thống nhất nhận thức đấu tranh phòng, chống lãng phí là cuộc chiến chống “giặc nội xâm” đầy cam go, phức tạp; là một phần của cuộc đấu tranh giai cấp; có vị trí tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để xây dựng Đảng ta...., “là đạo đức, là văn minh”
Trong bài viết “Chống lãng phí”, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: Cần thống nhất nhận thức đấu tranh phòng, chống lãng phí là cuộc chiến chống “giặc nội xâm” đầy cam go, phức tạp; là một phần của cuộc đấu tranh giai cấp; có vị trí tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để xây dựng Đảng ta vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.
Trong bài viết, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh rằng phòng, chống lãng phí không chỉ là nhiệm vụ cấp bách mà còn mang ý nghĩa chính trị sâu sắc, liên quan trực tiếp đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Ông khẳng định lãng phí, dù ở bất kỳ lĩnh vực nào, cũng làm suy giảm nguồn lực quốc gia, cản trở phát triển kinh tế - xã hội và làm suy yếu bộ máy quản lý.
Do đó, cùng với phòng, chống tham nhũng, công tác chống lãng phí phải được thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Việc này không chỉ giúp xây dựng Đảng ta vững mạnh mà còn thể hiện đúng tinh thần “là đạo đức, là văn minh”, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Thông tin mang tính tham khảo thêm.
Trong bài “Chống lãng phí”, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Phòng, chống lãng phí là cuộc chiến chống “giặc nội xâm” cam go, phức tạp; gắn với đấu tranh giai cấp, ngang tầm chống tham nhũng, tiêu cực, nhằm xây dựng Đảng ta ..., “là đạo đức, là văn minh” (Hình từ Internet)
Đảng viên Việt Nam có những quyền nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 3 Quy định 232-QĐ/TW năm 2025 thi hành Điều lệ Đảng:
Theo đó, Đảng viên Việt Nam có những quyền sau:
(1) Quyền được thông tin của đảng viên.
Định kỳ hằng tháng hoặc đột xuất, theo hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương và cấp ủy cấp trên, các cấp ủy đảng thông tin cho đảng viên về tình hình, nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị; các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thời sự trong nước, thế giới... phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, đặc điểm của tổ chức đảng và đảng viên, góp phần nâng cao nhận thức, tạo điều kiện cho đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
(2) Quyền của đảng viên trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.
Thực hiện theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
(3) Quyền của đảng viên trong việc phê bình, chất vấn tổ chức đảng và đảng viên; báo cáo, kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm.
Đảng viên được phê bình, chất vấn, báo cáo, kiến nghị trực tiếp hoặc bằng văn bản trong phạm vi tổ chức của Đảng về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp; về những vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức đảng hoặc chức trách, nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức của đảng viên đó; chịu trách nhiệm trước tổ chức đảng về ý kiến của mình. Khi nhận được ý kiến phê bình, chất vấn, báo cáo, kiến nghị, tổ chức đảng và đảng viên có trách nhiệm phải trả lời theo thẩm quyền, chậm nhất là 30 ngày làm việc đối với tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, 60 ngày làm việc đối với cấp huyện, tỉnh và tương đương, 90 ngày làm việc đối với cấp Trung ương. Những trường hợp phức tạp cần phải kéo dài hơn thời gian quy định trên thì phải thông báo cho tổ chức đảng và đảng viên biết lý do.
(4) Đảng viên được thông báo ý kiến nhận xét của cấp ủy nơi làm việc và nơi cư trú khi xem xét bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử; được trình bày ý kiến với tổ chức đảng, cấp ủy đảng khi xem xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình