Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lĩnh vực nào là quốc sách hàng đầu?
Nội dung chính
Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lĩnh vực nào là quốc sách hàng đầu?
Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lĩnh vực Giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991, Đảng ta xác định giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Đây là một quyết sách mang tầm chiến lược, khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Giáo dục - đào tạo không chỉ là nền tảng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực mà còn bồi dưỡng nhân tài, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện mục tiêu này, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chính sách như cải cách chương trình giáo dục, mở rộng mạng lưới trường học, khuyến khích nghiên cứu khoa học và đầu tư mạnh mẽ vào nguồn nhân lực.
Việc coi giáo dục là quốc sách hàng đầu thể hiện tầm nhìn chiến lược, hướng tới một xã hội phát triển bền vững, có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tư tưởng này tiếp tục được khẳng định và phát huy qua các kỳ Đại hội Đảng sau này.
Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lĩnh vực nào là quốc sách hàng đầu? (Hình từ Internet)
Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có giá trị thi hành khi nào?
Căn cứ Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 quy định như sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Như vậy, Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành.
Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.