Cho vay tiền bằng giấy viết tay từ năm 2017 người vay không trả dù đã quá hạn có thể đòi lại số tiền này không?

Từ năm 2017, vay nợ bằng giấy viết tay. Hiện người này không trả nợ dù đã quá thời hạn từ lâu. Nếu đưa ra tòa án thì tôi có đòi lại được số tiền trên không?

Nội dung chính

    Cho vay tiền bằng giấy viết tay từ năm 2017 người vay không trả dù đã quá hạn có thể đòi lại số tiền này không?

    Từ năm 2017, Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực, tuy nhiên, về cơ bản, tinh thần của Bộ luật dân sự 2015 đối với hợp đồng vay tài sản cũng không có nhiều thay đổi so với Bộ luật dân sự 2005. Cụ thể, theo quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 thì: Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

    Bộ luật dân sự 20155 cũng nêu rõ, hợp đồng có thể được lập dưới hình thức là văn bản, bằng lời nói hoặc hành vi pháp lý. Pháp luật hiện hành không quy định bắt buộc về hình thức của hợp đồng vay tài sản cũng như việc phải công chứng, chứng thực hợp đồng này. Do vậy, giấy viết tay về việc vay và cho vay số tiền 400 triệu đồng giữa anh và người quen cũng được coi là một hợp đồng vay tài sản. Do đó, người vay tiền bạn phải có nghĩa vụ trả nợ vay theo Điều 466 Bộ luật dân sự 2015. Nếu quá hạn trả mà người vay không trả nợ, anh có quyền khởi kiện người vay ra Tòa án cấp huyện (nơi người vay cư trú) để yêu cầu tòa án giải quyết, buộc người vay phải trả cho anh số tiền đã vay.

    Khi khởi kiện, bạn phải giao nộp bản chính giấy vay nợ cho tòa án theo quy định tại Điều 95 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015. Tòa án sẽ dùng giấy vay nợ này làm căn cứ để xác định yêu cầu của anh “là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự” theo đúng quy định tại Điều 93 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015.

    Nếu người vay không thừa nhận chữ viết (hoặc chữ ký) của mình trong giấy vay, họ phải “đưa ra chứng cứ để chứng minh” đó không phải là chữ viết (hoặc chữ ký) của họ hoặc theo yêu cầu của đương sự, tòa án sẽ tiến hành trưng cầu giám định đối với chữ viết (hoặc chữ ký) của các bên trong giấy vay.

    Trong trường hợp có đủ căn cứ để xác định đúng chữ viết (hoặc chữ ký) của các bên trong giấy vay, giấy vay nợ có chữ ký của hai bên sẽ được tòa án coi là chứng cứ để xác định nghĩa vụ trả nợ của người vay.

     

    17