Chính quyền đầu tiên xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là gì?
Nội dung chính
Chính quyền đầu tiên xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là gì?
Chính quyền đầu tiên xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là triều đại Nhà Nguyễn của Việt Nam.
Từ thời chúa Nguyễn (thế kỷ XVII), chính quyền đã tổ chức Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải để khai thác, tuần tra, cắm mốc xác lập chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa. Đến thời vua Gia Long (1802-1820), việc quản lý hai quần đảo này được chính thức hóa, với các hoạt động vẽ bản đồ, đo đạc hải trình, dựng bia chủ quyền.
Dưới triều vua Minh Mạng (1820-1841), Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền, cho lập miếu thờ, trồng cây để làm dấu mốc, đặt bia chủ quyền và thường xuyên cử lực lượng ra tuần tra, quản lý. Những tư liệu này đã được ghi chép trong các bộ sử như Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí…
Chính vì vậy, Nhà Nguyễn là chính quyền đầu tiên ở Việt Nam có đầy đủ các hoạt động quản lý thực tế, xác lập chủ quyền hợp pháp của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chính quyền đầu tiên xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là gì? (Hình từ Internet)
Nhà nước khuyến khích đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo?
Căn cứ khoản 2 Điều 4 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo 2015 quy định như sau:
Chính sách của Nhà nước về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
1. Nhà nước bảo đảm tài nguyên biển và hải đảo được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả, bền vững theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
2. Nhà nước huy động các nguồn lực, khuyến khích đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; ưu tiên cho vùng biển sâu, biển xa, hải đảo, vùng biển quốc tế liền kề và các tài nguyên mới có tầm quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
3. Tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo; nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong việc kiểm soát ô nhiễm, phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường biển và hải đảo, biến đổi khí hậu, nước biển dâng; quản lý chặt chẽ hoạt động nhận chìm ở biển.
4. Đầu tư nâng cao năng lực quan trắc, giám sát, dự báo về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; thiết lập hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tổng hợp, đồng bộ về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo phục vụ phát triển kinh tế biển, quốc phòng, an ninh.
5. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.
Như vậy, Nhà nước Việt Nam khuyến khích đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.
Nhà nước có chính sách ưu tiên điều tra, nghiên cứu các vùng biển sâu, biển xa, hải đảo và vùng biển quốc tế liền kề.
Bên cạnh đó, Việt Nam chú trọng vào việc kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, ứng phó với sự cố môi trường, biến đổi khí hậu, nước biển dâng và tăng cường hệ thống quan trắc, giám sát biển đảo. Đồng thời, Nhà nước còn thúc đẩy hợp tác quốc tế trong quản lý, khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, giữ vững chủ quyền quốc gia.
Việc nghiên cứu khoa học không chỉ góp phần phát triển kinh tế mà còn giúp Việt Nam khẳng định chủ quyền biển đảo, bảo vệ môi trường và ứng phó với những thách thức toàn cầu.