11:52 - 30/09/2024

Giám định pháp y tâm thần đối với hình thức giám định nội trú căn cứ vào những nội dung gì để kết luật?

Kết luận giám định pháp y tâm thần đối với hình thức giám định nội trú căn cứ vào những nội dung gì và kết luận này cần phải đảm bảo những gì?

Nội dung chính

    Giám định pháp y tâm thần đối với hình thức giám định nội trú căn cứ vào những nội dung gì để kết luật?

    Kết luận giám định pháp y tâm thần đối với hình thức giám định nội trú được quy định tại Điểm 11 Khoản I Phần B Phục lục 1 Quy trình giám định pháp y tâm thần ban hành kèm theo Thông tư 23/2019/TT-BYT (có hiệu lực từ 01/11/2019), cụ thể như sau:

    Căn cứ vào: kết quả nghiên cứu tài liệu, kết hợp quá trình theo dõi, thăm khám đối tượng giám định; các dấu hiệu lâm sàng, cận lâm sàng và mức độ mắc bệnh/không mắc bệnh của từng đối tượng giám định, từng vụ việc cụ thể liên quan đến đối tượng giám định, giám định viên tham gia giám định thảo luận, đưa ra kết luận giám định.

    Kết luận giám định phải trả lời đầy đủ các nội dung của Quyết định trưng cầu hoặc của yêu cầu giám định và được lập thành văn bản.

    Giám định viên tham gia giám định đều phải ký vào kết luận giám định. Trường hợp nếu có giám định viên không thống nhất thì ghi rõ ý kiến của giám định viên đó. Giám định viên có quyền độc lập đưa ra ý kiến bảo lưu kết luận của mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận đó.

    (1) Kết luận theo tiêu chuẩn y học:

    - Căn cứ Tiêu chuẩn chẩn đoán của Tổ chức Y tế Thế giới về các rối loạn tâm thần và hành vi hiện hành (ICD-10), căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, giám định viên tham gia giám định xác định đối tượng giám định:

    - Họ và tên:

    - Có bệnh tâm thần, rối loạn tâm thần hay không?

    - Bệnh tâm thần, rối loạn tâm thần gì (ghi mã bệnh)?

    - Tình trạng tâm thần trước, trong và sau khi xảy ra vụ việc?

    (2) Kết luận về khả năng nhận thức, điều khiển hành vi.

    Căn cứ Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật dân sự năm 2015; căn cứ vào khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của đối tượng giám định trong từng thời điểm, đặc biệt tại thời điểm xảy ra vụ việc, giám định viên tham gia giám định thảo luận và xác định đối tượng giám định có một trong các tình trạng nhận thức, điều khiển hành vi sau đây:

    - Mất khả năng nhận thức và/hoặc khả năng điều khiển hành vi;

    - Hạn chế khả năng nhận thức và/hoặc khả năng điều khiển hành vi (có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi ở các vụ việc dân sự);

    - Đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

    3