Giải quyết quyền lợi cho người thừa kế khi thu hồi đất?
Nội dung chính
Giải quyết quyền lợi cho người thừa kế khi thu hồi đất?
Việc UBND xã thông báo vợ chồng chị không được thừa kế bồi 1.2 ha đất nông nghiệp do chồng chị là cán bộ nhà nước và không được bồi thường do thời gian còn sống bố chị chưa thực hiện xong nghĩa vụ tài chính về đất đai là không hợp lý.
Về vấn đề chồng chị là cán bộ nhà nước. Khi bố chị còn sống, chị vẫn giúp ông trồng cấy trên mảnh đất đó và đến khi ông mất chị vẫn tiếp tục sử dụng đất đó. Khoản 1 Điều 179 Luật Đất đai năm 2013 có quy định: “Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật. Hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Thêm vào đó, tại Điều 734 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng có quy định như sau: “Cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất có quyền thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”. Điều 735Bộ luật trên cũng ghi rõ: “Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để lại cho những người thừa kế theo quy định tại phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”.
Chị không phải là cán bộ Nhà nước, khi bố chị còn sống, chị vẫn giúp cha trồng cấy trên mảnh đất đó, và vẫn tiếp tục sử dụng mảnh đất đó sau khi bố mất. Hơn nữa, trong các điều khoản của pháp luật không quy định nếu chồng hoặc vợ là cán bộ Nhà nước thì không được quyền thừa kế quyền sử dụng đất. Vợ chồng chị có nhu cầu sử dụng đất và chị có điều kiện trực tiếp sử dụng mảnh đất đó đúng mục đích cho nên được quyền thừa kế phần diện tích 1.2 ha đất nông nghiệp đó. Như vậy, việc cho rằng chồng chị là cán bộ Nhà nước nên vợ chồng chị không được thừa kế 1.2 ha đất nông nghiệp là không hợp lý. Vợ chồng chị hoàn toàn có đủ điều kiện được hưởng thừa kế 1.2 ha diện tích đất nông nghiệp theo quy định của Luật Đất đai năm 2013.
Về việc UBND cho rằng bố chị chưa thực hiện xong nghĩa vụ tài chính về đất đai nên vợ chồng chị không được bồi thường là sai. Bởi, Luật Đất đai năm quy định về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính: “Trong trường hợp người sử dụng đất được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất mà chưa thực hiện xong nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi giá trị nghĩa vụ tài chính chưa thực hiện trong giá trị được bồi thường, hỗ trợ” (Khoản 5 Điều 42).
Hiện nay, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013 đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, nhưng theo tinh thần Khoản 3 Điều 6 Nghị định số 197/2004/NĐ- CP ngày 03/12/2004 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003 quy định: “Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực hiện xong nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách Nhà nước”. Theo quy định tạiPhần II Điểm 1.2 Thông tư số 116/2004/TT- BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ- CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì nghĩa vụ tài chính bao gồm: tiền sử dụng đất phải nộp, tiền thuê đất đối với đất do Nhà nước cho thuê, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng các thửa đất khác của người có đất bị thu hồi (nếu có), tiền thu từ xử phạt vi phạm pháp luật về đất đai, tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai, phí và lệ phí trong quản lý và sử dụng đất đai. Trường hợp các khoản nghĩa vụ tài chính về đất đai phải nộp lớn hơn hoặc bằng tiền bồi thường đất thì số tiền được trừ tối đa bằng số tiền bồi thường đất.
Vậy, việc thông báo bồi thường của UBND xã cho gia đình anh chị như trên là sai.
Để bảo vệ quyền lợi của mình, anh chị có thể làm đơn khiếu nại lên cấp chính quyền mà trước tiên là cơ quan cấp Huyện yêu cầu xem xét giải