Tờ trình 2657/TTr-BNN-CN giải pháp cấp bách nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất chăn nuôi, bảo đảm đủ nguồn cung thực phẩm và bình ổn giá do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành

Số hiệu 2657/TTr-BNN-CN
Ngày ban hành 14/09/2011
Ngày có hiệu lực 14/09/2011
Loại văn bản Văn bản khác
Cơ quan ban hành Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Người ký Diệp Kỉnh Tần
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 2657/TTr-BNN-CN

Hà Nội, ngày 14 tháng 09 năm 2011

 

TỜ TRÌNH

VỀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẤP BÁCH NHẰM HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT CHĂN NUÔI, BẢO ĐẢM ĐỦ NGUỒN CUNG THỰC PHẨM VÀ BÌNH ỔN GIÁ

Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ

I. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CHĂN NUÔI 8 THÁNG ĐẦU NĂM 2011

1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi

1.1. Về tình hình sản xuất

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng sản lượng thịt hơi các loại sản xuất trong cả nước 6 tháng đầu năm 2011 đạt 2,460 triệu tấn, ước đạt 1,681 triệu tấn thịt xẻ, tăng 6,67% so với cùng kỳ năm 2010. Trong đó, thịt lợn 1,312 triệu tấn và thịt gia cầm 270,4 ngàn tấn thịt, chiếm tỷ lệ trên 90% tổng sản lượng thịt các loại. Sản lượng thịt sản xuất tăng nhưng vẫn không đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Sản lượng trứng đạt gần 4 tỷ quả, tăng 19%. So với cùng kỳ năm 2010, chỉ có đàn gia cầm tăng trưởng khoảng 5,9%, còn các loại gia súc khác đều giảm. Cụ thể đàn lợn giảm 3,7%, trong đó đàn lợn nái giảm khá mạnh, đàn bò giảm 5,2%, đàn trâu giảm 3,4%. Các địa phương có đàn gia súc giảm nhiều là các tỉnh đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.

Do ảnh hưởng của dịch bệnh gia súc, gia cầm năm 2010 và đầu năm 2011; cộng vào đó là tình hình sản xuất chăn nuôi không ổn định, không đều giữa các vùng đã xuất hiện sự thiếu hụt nguồn cung vào thời điểm cuối tháng 6 và đầu tháng 7, dẫn đến giá thực phẩm tăng và đứng ở mức cao, cao nhất vào tháng 7, sự thiếu nguồn cung cục bộ đưa đến sự chênh lệch giá, đặc biệt giá thịt lợn khá lớn (8.000 đến 10.000đ/kg lợn hơi) tại một số vùng, nhất là giữa miền Bắc và miền Nam.

1.2. Về xuất, nhập khẩu thịt

Nhìn chung khối lượng sản phẩm chăn nuôi xuất và nhập khẩu 8 tháng đầu năm không lớn, không có sự đột biến so với cùng kỳ năm 2010. Cụ thể:

a) Xuất khẩu:

- Tổng số lợn giống xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc 03 tháng đầu năm là 19.235 con, tương đương khoảng 1.250 tấn thịt hơi hoặc 887,7 tấn thịt xẻ (tháng 3 xuất khẩu nhiều nhất, chiếm 69,5%). Từ tháng 5 đến nay không xuất khẩu lô hàng nào.

- Tổng số thịt lợn sữa và lợn choai đông lạnh xuất khẩu chính ngạch sang Hồng Kông, Malaysia là 2.584 tấn, chỉ bằng 50% so với 6 tháng đầu năm 2010 và tập trung chủ yếu 4 tháng đầu năm. Từ tháng 5 đến nay, khối lượng xuất khẩu giảm đáng kể do giá trong nước cao.

b) Nhập khẩu:

- Tổng lượng thịt nhập khẩu 8 tháng đầu năm gần 76 ngàn tấn, trong đó trên 90% là sản phẩm gia cầm, còn lại là sản phẩm thịt lợn và thịt bò (thịt lợn khoảng 3500 tấn).

- Tổng số trâu bò nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm 2011 từ Cămpuchia, Lào, Thái Lan vào nước ta để giết mổ là khoảng 70.000 con, tương đương khoảng 4.927 tấn thịt xẻ.

1.3. Về tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi

Như vậy, phần lớn sản phẩm chăn nuôi được sản xuất trong nước chủ yếu phục vụ nhu cầu nội địa. Tuy nhiên, bảy tháng đầu năm 2011 đã ghi nhận sự tăng giá kỷ lục một số sản phẩm chăn nuôi. Cụ thể như sau:

a) Giá sản phẩm chăn nuôi

- Giá thịt lợn hơi từ 38.000 đ/kg tháng 1/2011 đã tăng 64.000 đ/kg (ở miền Nam) và 72.000 đ/kg (ở miền Bắc) vào tháng 7/2011, tăng 40-50%. Trong khi đó giá thành 1 kg thịt lợn hơi tại 2 thời điểm tương ứng là 34.000 đ và 43.000 đ/kg, tăng khoảng 26%. Như vậy, đã có sự chênh lệch khá lớn, trên 20% giữa sự tăng giá bán so với tăng giá thành.

Trong tháng 8/2011, giá thịt lợn hơi đã giảm và không còn sự chênh lệch lớn giữa hai miền Nam, Bắc cụ thể giá hiện nay: tại miền Bắc giá lợn ngoại nuôi ở trang trại là 59.000-60.000 đ/kg, miền Trung là 59.000-60.000 đ/kg và miền Nam là 57.000-58.000 đ/kg và lợn lai nội x ngoại nuôi trong nông hộ tại 3 miền là 53-54.000 đ/kg. Như vậy so với thời điểm cao nhất của tháng 7, giá lợn hơi hiện nay đã giảm 15,3% ở miền Bắc và miền Nam giảm 9%.

- Giá gà thịt thả vườn từ 39.000 đ/kg tháng 1/2011 đã tăng 42.000 đ/kg (ở miền Nam) và 45.000 đ/kg (ở miền Bắc) vào tháng 7/2011, tăng từ 7,2-13,6%. Trong khi đó giá thành 1 kg thịt gà hơi tại 2 thời điểm tương ứng là 34.000 đ và 36.000 đ/kg, tăng khoảng 6%.

- Giá gà thịt lông trắng từ 23.000 đ/kg tháng 1/2011 đã tăng 35.000 đ/kg (ở miền Nam) và 42.000 đ/kg (ở miền Bắc) vào tháng 7/2011, tăng trên 52%. Trong khi đó giá thành sản xuất 1 kg thịt gà hơi lông trắng tại 2 thời điểm tương ứng là 22.000 đ và 33.000 đ/kg, tăng khoảng 50%.

Hiện nay giá gà lông trắng đã giảm dần, nhất là ở miền Bắc. Cụ thể: tại miền Bắc 36.000 đ/kg (giảm 14,3%), miền Nam là 34.000 đ (giảm 3%) so với thời điểm tháng 7/2011. Riêng gà lông màu vẫn giữ mức giá xấp xỉ trước đây là 42.000 đ/kg ở miền Bắc, 35.000 đ/kg ở miền Nam.

- Giá trứng gà từ 1.350 đ/quả tháng 1/2011 đã tăng lên 1.650 đ/quả vào tháng 7/2011, tăng 18,2%. Trong khi đó giá thành 1 quả trứng gà tại 2 thời điểm tương ứng là 1.300 đ và 1.450 đ/quả, tăng khoảng 10,4%. Thời điểm trung tuần tháng 8/2011, giá trứng gà ta dao động 32.000-35.000 đ/chục quả, gà công nghiệp dao động từ 25.000-25.500 đ/chục quả.

- Giá trứng vịt thương phẩm từ 1.750 đ/quả tháng 1/2011 đã tăng 2.050 đ/quả vào tháng 7/2011, tăng 15%. Trong khi đó giá thành 1 quả trứng vịt tại 2 thời điểm tương ứng là 1.600 đ và 1.800 đ/quả, tăng khoảng 11,2%. Giá trứng vịt thời điểm tháng 8/2011 dao động từ 25.000-30.500 đ/chục quả.

Đồng thời với xu hướng giảm giá sản phẩm thịt lợn và thịt gà, giá con giống cũng có xu hướng giảm nhẹ, nhưng vẫn đứng ở mức cao. Trong đó giá lợn giống giảm chậm (hiện nay lợn giống ngoại 130.000-150.000đ/kg, lợn lai 95.000-100.000đ/kg) và giá gà giống lông trắng giảm nhanh ở miền Bắc. So với đầu tháng 7 giá gà lông trắng ở miền Bắc đã giảm 30% và đạt xấp xỉ giá ở miền Nam. Ở miền Nam chỉ có gà lông màu giảm, còn gà giống lông trắng vẫn giữ nguyên giá so với tháng 7/2011 (20.000-21.000đ/con).

- Giá bán sữa bò từ 9.300 đ/lít tháng 1/2011 đã tăng lên 10.900 đ/lít vào tháng 7/2011, tăng 15%. Trong khi đó giá thành 1 lít sữa tại 2 thời điểm tương ứng là 6.500 đ/lít và 8.000 đ/lít, tăng khoảng 32%. Trong tháng 8/2011, giá sữa tươi nguyên liệu thu mua vẫn ổn định, dao động trong khoảng từ 11.000-11.500 đ/kg.

[...]