BAN TỔ CHỨC-CÁN
BỘ CHÍNH PHỦ-BỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 195-LB
|
Hà Nội , ngày 13
tháng 11 năm 1992
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA BỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG - BAN TỔ CHỨC - CÁN
BỘ CHÍNH PHỦ SỐ 195-LB NGÀY 13 THÁNG 11 NĂM 1992 HƯỚNG DẪN ĐĂNG KÝ HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ
Ngày 28 tháng 1 năm 1992, Hội đồng
Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 35-HĐBT về
công tác quản lý khoa học và công nghệ. Nghị định khẳng định quyền chủ động của
tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công
dân thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc thành lập các tổ chức nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ (sau đây gọi tắt là tổ chức khoa học và công
nghệ).
Theo tinh thần Điều
15 của Nghị định, các tổ chức này phải tiến hành đăng ký hoạt động tại Uỷ
ban Khoa học Nhà nước (nay gọi là Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường) và tại
Uỷ ban (Ban) Khoa học tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương.
Thông tư Liên bộ này hướng dẫn cụ
thể việc đăng ký hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ như sau:
I. NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG
Đối tượng áp dụng của Thông tư
này là các tổ chức khoa học và công nghệ của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị
vũ trang, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân.
Tổ chức khoa học và công nghệ là
các tổ chức tiến hành các hoạt động.
- Nghiên cứu, thực nghiệm, triển
khai áp dụng các công nghệ mới, các kỹ thuật mới, các sản phẩm mới và biện pháp
tổ chức mới;
- Sản xuất đơn chiếc hoặc số lượng
nhỏ các sản phẩm mới với trình độ công nghệ cao mà các cơ sở sản xuất chưa có
điều kiện thực hiện.
Hoạt động sản xuất trong các tổ
chức khoa học và công nghệ (trừ các tổ chức chuyên sản xuất thử nghiệm độc lập)
phải bắt nguồn từ kết quả nghiên cứu của bản thân tổ chức khoa học và công nghệ.
- Thông tin - tư vấn, đào tạo, bồi
dưỡng và nâng cao nghiệp vụ về khoa học, công nghệ, tổ chức, quản lý.
Các tổ chức khoa học và công nghệ
có thể hoạt động với các hình thức sau: Viện, trung tâm, phòng thí nghiệm, trạm
trại nghiên cứu thực nghiệm quy định tại phụ lục IV.
Các tổ chức khoa học và công nghệ
có hoạt động liên quan tới các thí nghiệm trên cơ thể người và động vật; các chất
độc hại gây ô nhiễm môi trường; an ninh, quốc phòng v.v... thì nhất thiết phải
được phép của cơ quan quản lý Nhà nước về các lĩnh vực đó bằng văn bản và phải
xuất trình các văn bản ấy khi đăng ký hoạt động.
Các đơn vị kinh doanh thuộc các
tổ chức khoa học và công nghệ liên doanh với nước ngoài được điều chỉnh theo Luật đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn
có liên quan của Uỷ ban Hợp tác về đầu tư nước ngoài; các tổ chức khoa học và
công nghệ thành lập theo sự hợp tác nghiên cứu song phương hoặc đa phương giữa
các tổ chức khoa học và công nghệ của Việt Nam với các tổ chức nước ngoài (kể cả
cá nhân với người nước ngoài) phải đăng ký hoạt động theo quy định tại Điều 15 Nghị định 35-HĐBT ngày 28-1-1992 (nay là Chính phủ Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
Các trường, lớp đào tạo thuộc
các tổ chức khoa học và công nghệ thì thực hiện các quy định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
Các đơn vị chuyên sản xuất
thương phẩm và dịch vụ, kinh doanh trong các tổ chức khoa học và công nghệ (bao
gồm cả các tổ chức sản xuất sản phẩm ngoài lĩnh vực nghiên cứu của mình) không
thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư này mà phải tuân thủ các quy định tại Nghị
định số 388-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng đối với
doanh nghiệp Nhà nước ngày 20-11-1991, Nghị định số 222-HĐBT ngày 23-7-1991 và Nghị định số 221-HĐBT ngày 23-7-1991 của Hội đồng Bộ trưởng về
cụ thể hoá một số điều trong Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân.
II. TỔ CHỨC
ĐĂNG KÝ
2.1. Thủ tục đăng ký hoạt động.
Việc đăng ký hoạt động được tiến
hành theo trình tự sau:
1) Mọi tổ chức khoa học và công
nghệ khi đăng ký hoạt động phải nộp đơn xin đăng ký hoạt động (Phụ lục I) và tờ
khai đăng ký (Phụ lục II) tới các cấp xét duyệt đăng ký kèm theo toàn bộ hồ sơ
như quy định tại khoản 2 và 3 mục 2 dưới đây, thời gian không quá 03 tháng kể từ
ngày có quyết định thành lập. Sau thời hạn trên, văn bản quyết định thành lập
không còn giá trị để xin đăng ký hoạt động.
2) Các cấp xét duyệt đăng ký hoạt
động sau khi nhận đầy đủ hồ sơ, có trách nhiệm xem xét, thẩm định hồ sơ và chậm
nhất là 01 tháng phải cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho tổ chức khoa học
và cộng nghệ, nếu hồ sơ hợp lệ. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ cũng phải thông
báo để tổ chức khoa học và công nghệ kịp thời bổ sung hồ sơ.
Nếu quá thời hạn 01 tháng thì
các tổ chức khoa học và công nghệ có quyền khiếu nại tới các cấp có thẩm quyền
để giải quyết.
3) Những trường hợp sau đây hồ
sơ được coi là không hợp lệ
- Không đầy đủ hồ sơ theo quy định
tại mục 2.2 dưới đây;
- Hồ sơ khai không đúng với kết
quả thẩm định thực tế của các cơ quan có thẩm quyền;
- Trùng lặp tên gọi của tổ chức
khoa học và công nghệ đã có. Trong trường hợp này, các cấp xét duyệt đăng ký cần
thông báo cho tổ chức nộp hồ sơ sau (theo ngày tháng nhận hồ sơ) để thay đổi
tên gọi.
4) Sau khi có giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động, các tổ chức khoa học và công nghệ mới được tiến hành các thủ
tục xin khắc con dấu và đăng ký tài khoản theo quy định tại mục
2.5 dưới đây.
2.2. Quy định về hồ sơ
Các tổ chức khoa học và công nghệ
khi đăng ký hoạt động phải xuất trình các hồ sơ sau:
1) Về quyết định thành lập
Tổ chức khoa học và công nghệ
thuộc cấp (hoặc thành phần kinh tế) nào thì do cấp (hoặc thành phần kinh tế) đó
ra quyết định thành lập và phải tuân thủ các quy định cụ thể dưới đây:
a. Đối với các tổ chức khoa học
và công nghệ của Nhà nước:
Được Nhà nước tập trung đầu tư,
trang bị, cấp kinh phí hoạt động, các tổ chức này khi đăng ký hoạt động phải có
quyết định thành lập của cơ quan có thẩm quyền kèm theo ý kiến bằng văn bản của
Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường đối với các cơ quan trung ương) hoặc cơ
quan quản lý Khoa học, công nghệ và môi trường tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (đối với các cơ quan địa phương), cụ thể:
- Các Trung tâm khoa học và công
nghệ quốc gia (về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn), các cơ quan
khoa học và công nghệ chuyên ngành, có ý nghĩa toàn quốc, các Trung tâm khoa học
vùng, lãnh thổ phải có quyết định của Thủ tướng Chính phủ kèm theo văn bản ý kiến
của Bộ khoa học, công nghệ và môi trường và trình Thủ tướng của Ban Tổ chức -
cán bộ Chính phủ;
- Các tổ chức khoa học và công
nghệ trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ (được Nhà nước đầu tư và cấp kinh phí hoạt
động) phải có quyết định của Thủ tướng Chính phủ, kèm theo văn bản ý kiến của Bộ
Khoa học, công nghệ và môi trường và tờ trình Thủ tướng Chính phủ của Ban Tổ chức
- cán bộ Chính phủ. Trong trường hợp bộ, ngành tự đầu tư trang bị, cấp kinh phí
hoạt động không thuộc ngân sách Nhà nước thì tổ chức khoa học và công nghệ chỉ
cần xuất trình quyết định thành lập của Bộ, thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý
trực tiếp;
- Các tổ chức khoa học và công
nghệ do ngân sách tỉnh đầu tư và cấp kinh phí hoạt động, phải có quyết định của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kèm theo ý kiến
của cơ quan quản lý khoa học, công nghệ địa phương và tờ trình của Ban Tổ chức
chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và sở chủ quản;
- Các tổ chức khoa học và công
nghệ của các cơ quan Nhà nước sau khi sắp xếp lại theo tinh thần Quyết định 324-CT ngày 11-9-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng, phải có quyết định của cơ quan chủ quản nếu cơ quan chủ quản bảo đảm hoạt
động cho tổ chức khoa học và công nghệ đó bằng vốn tự có của mình. Trong trường
hợp cơ quan chủ quản chỉ bảo đảm được một phần (bằng vốn tự có hoặc tài sản do
Nhà nước trang bị trước đó) thì tổ chức khoa học và công nghệ đăng ký theo hình
thức tổ chức tập thể và một trong số các sáng lập viên sẽ do cơ quan Nhà nước
đó cử làm đại diện theo tinh thần mục b phần 3 Công văn số 40-TC/TCT/CS ngày
22-8-1992 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Quyết định 196-CT.
b. Các tổ chức khoa học và công
nghệ của đoàn thể, tổ chức xã hội:
Khi đăng ký hoạt động, các tổ chức
này phải xuất trình quyết định thành lập của cơ quan chủ quản.
c. Các tổ chức khoa học và công
nghệ thuộc khu vực tập thể:
Phải có quyết định thành lập của
tập thể chủ quản (các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp
v.v...), hoặc đơn xin đăng ký hoạt động (xem Phụ lục I) với chữ ký của tất cả
các sáng lập viên nếu tổ chức đó là của tập thể tự nguyện của các nhà khoa học.
d. Đối với các tổ chức khoa học
và công nghệ của tư nhân:
Tư nhân tự làm đơn xin đăng ký
hoạt động (Phụ lục I) và tờ khai đăng ký (Phụ lục II), với các điều kiện sau
đây:
- Có quyền công dân theo luật định;
- Có chứng chỉ về trình độ
chuyên môn trong lĩnh vực xin đăng ký hoạt động;
- Không phải là công chức Nhà nước
hoặc đang làm việc trong các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước hoặc
đang giữ các chức vụ trong bộ máy chính quyền các cấp theo chệ độ bầu cử;
- Không phải là sĩ quan tại ngũ
thuộc các lực lượng vũ trang Việt Nam.
2) Điều lệ hoạt động của tổ chức
khoa học và công nghệ.
Đối với tất cả các tổ chức khoa
học và công nghệ, Điều lệ đều không được trái với pháp luật hiện hành và phải
làm rõ:
- Tên gọi của tổ chức khoa học
và công nghệ;
- Chức năng, nhiệm vụ, các lĩnh
vực hoạt động;
- Các mối quan hệ;
- Trụ sở giao dịch chính thức;
- Vốn, tài sản và chế dộ sở hữu;
Chế độ sở hữu tài sản sẽ là căn
cứ xem xét tổ chức khoa học và công nghệ thuộc thành phần kinh tế nào và làm cơ
sở để khắc con dấu.
a. Đối với các tổ chức khoa học
và công nghệ của Nhà nước:
Điều lệ phải được Thủ tướng
Chính phủ ban hành hoặc Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ ban hành
theo sự uỷ nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
b. Đối với các tổ chức xã hội,
đoàn thể: Điều lệ phải được cấp quyết định thành lập tổ chức ban hành.
c. Đối với các tổ chức khoa học
và công nghệ của tập thể: Điều lệ do Tập thể chủ quản ban hành hoặc do Hội đồng
sáng lập thông qua với chữ ký của tất cả các sáng lập viên.
d. Đối với các tổ chức khoa học
và công nghệ của tư nhân: Điều lệ do tư nhân đề ra hoặc được Hội nghị toàn thể
các sáng lập viên hoặc các cổ đông thông qua, cùng ký tên.
3) Về nhân lực khoa học
Mọi tổ chức khoa học và công nghệ
đều nhất thiết phải có danh sách nhân lực khoa học với ít nhất là 10 người và
2/3 tổng số nhân lực phải có trình độ đại học trở lên trong lĩnh vực xin đăng
ký hoạt động. Danh sách phải làm rõ:
+ Họ và tên, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, nơi công tác (nếu có), chế độ công tác (chính nhiệm, kiêm nhiệm)
của các nhân viên;
+ Cán bộ lãnh đạo:
Cán bộ lãnh đạo phải có lý lịch
khoa học theo mẫu của Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường quy định tại Phụ lục
V và lý lịch bản thân do chính quyền cơ sở xác nhận.
a. Đối với các tổ chức khoa học
và công nghệ của Nhà nước thì lãnh đạo phải có trình độ chuyên môn từ phó tiến
sĩ trở lên và có năng lực quản lý;
b. Đối với các tổ chức khoa học
và công nghệ thuộc các thành phần kinh tế khác thì lãnh đạo phải có trình độ đại
học trở lên (trừ trường hợp là nghệ nhân, những người được xã hội thừa nhận đặc
cách) đồng thời phải đảm bảo các điều kiện như đã quy định tại phần d mục về Quyết
định thành lập trên đây.
4) Về vốn
Khi đăng ký hoạt động, các tổ chức
khoa học phải có giấy chứng nhận của cơ quan Tài chính và Ngân hàng về vốn theo
quy định về vốn pháp định - là mức tối thiểu để thực hiện các hoạt động trong
các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ quy định tại Phụ lục
III. Phụ lục III chỉ quy định vốn pháp định cho việc tổ chức các hoạt động từ
nghiên cứu khoa học đến sản xuất thử nghiệm và các hoạt động thông tin, tư vấn.
Trường hợp tổ chức khoa học công nghệ xin đăng ký các hoạt động sản xuất (như
đã quy định tại phần I trên đây) thì các cấp xét duyệt đăng
ký phải vận dụng các danh mục vốn pháp định đối với từng ngành nghề ban hành
kèm theo Nghị định số 221-HĐBT ngày
23-7-1991 của Hội đồng Bộ trưởng cụ thể hoá một số quy định trong Luật doanh nghiệp tư nhân; Nghị định số 222-HĐBT ngày 23-7-1991 của Hội đồng Bộ trưởng
cụ thể hoá một số quy định trong Luật công ty.
Vốn pháp định của các tổ chức
khoa học và công nghệ của Nhà nước tối thiểu không thấp hơn mức vốn pháp định của
các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc khu vực tập thể và tư nhân.
5) Giấy chứng nhận của địa
phương về nơi đặt trụ sở của tổ chức khoa học và công nghệ.
6) Tờ khai đăng ký: quy định tại
Phụ lục II.
Tờ khai do lãnh đạo tổ chức ký
tên.
7) Phương án tổ chức hoạt động
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
2.3. Phân cấp xét duyệt
Theo Điều 15 của Nghị
định 35-HĐBT, việc xét cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động được phân cấp
như sau:
1. Đối với các tổ chức khoa học
và công nghệ thuộc khu vực Nhà nước và đoàn thể do cấp Trung ương ra quyết định
thành lập thì đăng ký tại Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường;
2. Đối với các tổ chức khoa học
và công nghệ thuộc cấp cơ sở, ở địa phương và tập thể tự nguyện thì đăng ký tại
cơ quan quản lý khoa học và công nghệ tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của tổ chức;
3. Đối với các tổ chức khoa học
và công nghệ của tư nhân thì đăng ký tại cơ quan quản lý khoa học và công nghệ
tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của tổ chức.
2.4 Quy định về lệ phí đăng ký
Để tiến hành các thủ tục xem
xét, thẩm định hồ sơ các cấp xét duyệt đăng ký được phép thu một khoản lệ phí
do Bộ Tài chính quy định tại Thông tư số 61-TC/TCT ngày 8-11-1991 về việc thu lệ
phí cấp đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp.
2.5 Các thủ tục đăng ký con dấu
và tài khoản.
1. Việc xét duyệt con dấu cho
các tổ chức khoa học và công nghệ được phân cấp theo quy định hiện hành của Bộ
Nội vụ. Để được cấp con dấu, các tổ chức khoa học và công nghệ phải có đầy đủ
các hồ sơ sau:
- Có giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động;
- Có quyết định thành lập và điều
lệ hoạt động của tổ chức như đã quy định tại mục 2.2 của Thông
tư này;
Sau khi nhận đủ các hồ sơ trên,
chậm nhất là 10 ngày các cấp xét duyệt con dấu phải cấp con dấu cho các tổ chức
khoa học và công nghệ.
2. Việc đăng ký các loại tài khoản
được tiến hành theo các thủ tục hiện hành quy định tại Công văn số 1950-TC/HCVX
của Bộ Tài chính ngày 21-10-1992 và Công văn số 505-KT/TC2 của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, căn cứ vào các nguồn thu chi của tổ chức khoa học và công nghệ. Cụ thể,
căn cứ nguồn vốn của tổ chức khoa học và công nghệ quy định tại Điều
10 Nghị định 35-HĐBT thì việc đăng ký mở các loại tài khoản được quy định
như sau:
- Đối với các nguồn vốn do Ngân
sách Nhà nước cấp thì tuân thủ các quy định của Cục kho bạc Nhà nước;
- Đối với các nguồn vốn khác
(kinh phí do thực hiện hợp đồng, vốn do liên doanh, liên kết, vốn vay ngân
hàng, viện trợ của các tổ chức quốc tế...) thì các tổ chức khoa học và công nghệ
được mở các loại tài khoản (kể cả tài khoản ngoại tệ) tại các ngân hàng chuyên
doanh.
2.6. Quy định về thời hạn hiệu lực
của giấy chứng nhận đăng ký.
Thời hạn hiệu lực của giấy chứng
nhận đăng ký tùy thuộc vào lĩnh vực xin đăng ký:
- Đối với các lĩnh vực hoạt động
chuyên đề mang tính ứng dụng thì thời hạn là 2 đến 3 năm;
- Đối với các lĩnh vực nghiên cứu
dài hạn, đặc biệt là các nghiên cứu cơ bản thì thời hạn là 5 năm.
2.7. Kiểm tra và xử lý vi phạm
1) Những hình thức vi phạm quy
chế đăng ký hoạt động
- Không có giấy chứng nhận đăng
ký mà vẫn hoạt động;
- Hoạt động ngoài lĩnh vực đã
đăng ký;
- Giấy chứng nhận đăng ký hết thời
hạn hiệu lực mà vẫn hoạt động;
- Các hoạt động khác không vi phạm
trực tiếp quy chế đăng ký hoạt động như các hoạt động vi phạm pháp luật, buôn lậu,
trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường, gây phương hại cho an ninh, quốc phòng...
2) Xử lý vi phạm
Các cấp xét duyệt đăng ký có
trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan kiểm tra định kỳ hoạt động của
các tổ chức khoa học và công nghệ. Trong trường hợp phát hiện các vi phạm trên,
các cấp xét duyệt đăng ký có thể áp dụng các biện pháp từ xử phạt hành chính
(nhắc nhở, cảnh cáo bằng văn bản), đến thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động
và khuyến nghị các cấp có liên quan đình chỉ hoạt động, thu hồi con dấu, phong
toả tài khoản..., tuỳ thuộc vào quy mô và mức độ vi phạm quy chế đăng ký.
Khi tổ chức khoa học và công nghệ
bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động và bị đình chỉ hoạt động, các cấp
xét duyệt đăng ký có trách nhiệm thông báo về việc này bằng phương tiện thông
tin đại chúng (phát thanh, truyền hình hoặc đăng báo hàng ngày của trung ương
và địa phương sở tại ít nhất 5 số liên tiếp).
III. TRÁCH
NHIỆM VÀ QUYỀN LỢI
3.1. Trách nhiệm:
Các tổ chức khoa học và công nghệ
(kể cả các tổ chức hiện đang hoạt động) thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư
này, từ nay trở đi, nhất thiết phải có giấy chứng nhận đăng ký mới được hoạt động.
Trong trường hợp ngược lại, hoạt động coi như phạm pháp.
Các tổ chức khoa học và công nghệ
hiện đang hoạt động phải hoàn thành việc đăng ký chậm nhất sau 03 tháng kể từ
khi ban hành Thông tư này. Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước
thuộc diện này, trong khi chờ đợi sắp xếp lại theo tinh thần Quyết định 324-CT ngày 11-9-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng về việc "Tổ chức lại mạng lưới các cơ quan nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ", được tạm thời sử dụng quyết định thành lập cũ của
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (có xác nhận của cơ quan chủ quản) để tiến hành các
thủ tục đăng ký hoạt động.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, tổ chức khoa học và công nghệ
phải đăng báo hàng ngày của Trung ương và địa phương nơi tổ chức đặt trụ sở ít
nhất 5 số liên tiếp về tên của tổ chức, địa chỉ, lĩnh vực hoạt động theo đăng
ký, số tài khoản tại các ngân hàng, điện thoại, điện báo v.v...
3.2. Quyền lợi: Các tổ chức khoa
học và công nghệ sau khi có giấy chứng nhận đăng ký sẽ được luật pháp bảo hộ,
được bình đẳng trong hoạt động khoa học và công nghệ như: tham gia hoặc chủ trì
các nhiệm vụ Nhà nước, hợp tác quốc tế, được áp dụng các chính sách thuế thích
hợp và các quyền lợi khác theo quy định của pháp luật.
Lê
Quý An
(Đã
ký)
|
Tô
Tử Hạ
(Đã
ký)
|