Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Thông tư liên ngành 10/TTLN năm 1990 giải quyết một số vấn đề cấp bách về tín dụng do Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao và Trọng tài kinh tế Nhà nước ban hành

Số hiệu 10/TTLN
Ngày ban hành 25/10/1990
Ngày có hiệu lực 09/11/1990
Loại văn bản Thông tư liên tịch
Cơ quan ban hành Bộ Nội vụ,Bộ Tư pháp,Tòa án nhân dân tối cao,Trọng tài kinh tế Nhà nước
Người ký ***
Lĩnh vực Tiền tệ - Ngân hàng,Trách nhiệm hình sự,Thủ tục Tố tụng,Quyền dân sự

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO-BỘ NỘI VỤ-BỘ TƯ PHÁP-TRỌNG TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC
*******

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******

Số: 10/TTLN

Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 1990

 

THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH

HƯỚNG DẪN GIẢI QUYẾT MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH VỀ TÍN DỤNG

Để góp phần giải quyết tốt một số vấn đề cấp bách về tín dụng, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người gửi tiền, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Trọng tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn như sau:

1. Theo tinh thần của Chỉ thị số 313-CT ngày 1-9-1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về xử lý tình hình khó khăn của các tổ chức tín dụng ngoài ngân hàng hiện nay thì Ủy ban nhân dân cấp huyện phải thành lập Ban xử lý do Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân làm trưởng ban; đại diện các ngành Công an, Tài chính, Ngân hàng, Thanh tra, Kiểm sát, Tòa án, Trọng tài kinh tế và một số đại diện cổ đông, đại diện gửi tiền, một thành viên Ban quản trị làm thành viên. Ban xử lý có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tổ chức tín dụng này thực hiện các chủ trương, biện pháp về thu nợ trả tiền gửi, kê biên và phong tỏa tài sản thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng và của cá nhân thành viên Hội đồng quản trị, Ban điều hành và những người có liên quan. Ban xử lý của Ủy ban nhân dân có trách nhiệm giải quyết trước các vấn đề về tín dụng. Nếu các đương sự không đồng ý với biện pháp giải quyết của Ban xử lý thì tùy trường hợp cụ thể mà yêu cầu của đương sự được chuyển giao cho cơ quan Trọng tài kinh tế, cơ quan điều tra, Tòa án để giải quyết theo thủ tục do pháp luật quy định.

Trong các trường hợp Ban xử lý chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để xử lý về hình sự mà chưa áp dụng hoặc áp dụng chưa triệt để các biện pháp cưỡng chế hành chính, thì cơ quan điều tra phối hợp với Ban xử lý kiên quyết áp dụng ngay biện pháp kê biên tài sản của người có trách nhiệm trả nợ và bán đấu giá lấy tiền trả cho người gửi.

Nếu Ban xử lý chưa kê biên được tài sản bị phân tán, giấu diếm, thì tiếp tục điều tra và khi phát hiện được cần phải kiên quyết kê biên ngay tài sản đó. Đối với các tài sản đã kê biên được, cơ quan điều tra giao cho Ban xử lý đấu giá mà không cần phải chờ kết quả xét xử vụ án. Các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Trọng tài kinh tế phối hợp chặt chẽ với các cơ quan điều tra, Ngân hàng, Ban xử lý để giải quyết tốt việc khấu trừ vào tiền gửi ngân hàng, kê biên, bán đấu giá tài sản và trả cho người bị thiệt hại.

2. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân và Trọng tài kinh tế.

Chủ thể của các hợp đồng về tín dụng có thể là cá nhân có đăng ký kinh doanh, có tài khoản tại ngân hàng, cá nhân không có đăng ký kinh doanh, pháp nhân.

Hợp đồng về tín dụng giữa tổ chức tín dụng với pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh vay tiền nhằm mục đích sản xuất kinh doanh, là hợp đồng kinh tế; tranh chấp về loại hợp đồng này là tranh chấp về hợp đồng kinh tế. Loại tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài kinh tế.

Hợp đồng về tín dụng giữa tổ chức tín dụng với pháp nhân hoặc cá nhân vay tiền không nhằm mục đích sản xuất, kinh doanh là hợp đồng dân sự; tranh chấp về loại hợp đồng này là tranh chấp về hợp đồng dân sự. Loại tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

3. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện.

Do tính chất cấp bách của tình hình, cho nên Tòa án cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tín dụng, cũng như về chơi hụi (họ), có mức thiệt hại dưới 20 triệu đồng và thuộc trường hợp được áp dụng các khoản của điều luật có mức hình phạt cao nhất từ 7 năm tù trở xuống. Cần chú ý là việc tạm thời giao thẩm quyền cho các Tòa án cấp huyện đối với các vụ án hình sự theo mức thiệt hại này chỉ áp dụng đối với các tội quy định tại các điều 134, 135, 137, 157, 158, 174 Bộ luật hình sự trong trường hợp không có các tình tiết định khung hình phạt khác (như tái phạm nguy hiểm…).

Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tín dụng có mức thiệt hại từ 20 triệu đồng trở lên. Phạm tội gây thiệt hại từ 20 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng là phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng. Phạm tội gây thiệt hại từ 50 triệu đồng trở lên là phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Tùy trường hợp cụ thể mà Tòa án áp dụng các khoản tương ứng của điều luật đối với kẻ phạm tội.

4. Về tội danh

a. Các tổ chức tín dụng được coi là các hợp tác xã tín dụng; do đó, tiền của các tổ chức tín dụng này là tài sản xã hội chủ nghĩa, chiếm đoạt tài sản của các tổ chức tín dụng này là chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa; gây thiệt hại về tài sản cho tổ chức tín dụng là gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa; các thành viên Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Ban chủ nhiệm tổ chức tín dụng là người có chức vụ của các tổ chức này.

b. Đối với người vay tiền của tổ chức tín dụng:

- Người vay tiền của tổ chức tín dụng nhằm mục đích sản xuất, kinh doanh, giải quyết các vấn đề về đời sống… có đảm bảo trả nợ sòng phẳng, khi vay tiền không có ý định chiếm đoạt, nhưng khi đến hạn phải trả nợ mới không có ý định trả nợ hoặc bỏ trốn để trốn tránh việc trả nợ, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa theo Điều 135 Bộ luật hình sự.

- Người vay tiền của tổ chức tín dụng mà có thủ đoạn gian dối (như: đem tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình để thế chấp khi vay tiền; man khai giá trị của tài sản để được vay nhiều tiền; mang một tài sản để thế chấp ở nhiều nơi v.v…) để được vay tiền của tổ chức tín dụng, nếu sau đó chiếm đoạt tiền được vay thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa theo Điều 134 Bộ luật hình sự; còn nếu không có ý định chiếm đoạt, nhưng không trả được nợ vì những lý do chính đáng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa theo Điều 137 Bộ luật hình sự.

- Đối với người vay tiền của tổ chức tín dụng nhằm mục đích phát triển sản xuất, kinh doanh… không có thủ đoạn gian dối khi vay tiền, mà không trả nợ được vì thực sự khó khăn về kinh tế, không có biểu hiện chây ỳ, trốn tránh việc trả nợ, thì chỉ xử lý về dân sự.

c. Đối với các thành viên Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Ban chủ nhiệm tổ chức tín dụng:

- Nếu những người này buông lỏng quản lý, không kiểm tra, kiểm soát… việc thực hiện các quy định của Nhà nước, Ngân hàng về tổ chức, hoạt động của tổ chức tín dụng, về cho vay, thế chấp tài sản gây mất mát, thất thoát tài sản, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của tổ chức tín dụng, thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa theo Điều 139 Bộ luật hình sự.

- Nếu những người nói trên cố ý vi phạm các quy định của Nhà nước, của Ngân hàng về huy động vốn, về lãi suất cho vay… (như: tăng mức lãi suất huy động tiền gửi quá cao so với lãi suất tiết kiệm của Ngân hàng để cạnh tranh với Ngân hàng, cho vay tiền không có tài sản thế chấp, không thu giữ tài sản thế chấp; cho vay không đúng đối tượng; không làm đúng các quy định về kế toán, thống kê…) thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 174 Bộ luật hình sự.

- Nếu những người nói trên lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của tổ chức tín dụng (là tài sản thuộc quyền sở hữu của tập thể các cổ đông) thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa theo Điều 133 Bộ luật hình sự.

5. Về lãi suất tiền gửi, tiền cho vay

Các tổ chức tín dụng phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Ngân hàng về lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền cho vay. Do đó cần áp dụng các mức lãi suất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời gian tương ứng để tính tiền lãi cho người gửi tiền vào cho tổ chức tín dụng. Khi giải quyết loại việc này cần thông báo cho Ủy ban nhân dân để Ủy ban nhân dân yêu cầu cơ quan Ngân hàng phải có trách nhiệm phối hợp, tham gia đầu trong việc quản lý tài sản ở Ngân hàng, tính toán tiền lãi… chứ không phải Ngân hàng chỉ tham gia với tư cách là người giám định.

Trong trường hợp tổ chức tín dụng nâng mức lãi suất quá cao trái với quy định của Ngân hàng thì phần thu nhập do vượt quá lãi suất quy định là thu nhập không hợp pháp phải được thu hồi để trả cho người gửi tiền.

6. Các thành viên Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Ban chủ nhiệm tổ chức tín dụng phải chịu trách nhiệm chính trước người gửi tiền và trước pháp luật về tài sản của tổ chức tín dụng. Những người này nếu không phạm các tội như đã nêu ở điểm 4 Thông tư này thì cũng phải tham gia trực tiếp với việc đi đòi nợ để lấy tiền trả cho người gửi. Nếu họ trốn tránh trách nhiệm, không chịu đi đòi nợ v.v… thì cần truy cứu trách nhiệm hình sự họ về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa theo Điều 139 Bộ luật hình sự. Khi nhận được yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc của cơ quan thanh tra cấp huyện thì cơ quan Công an áp dụng ngay biện pháp tạm giữ những người đó. Tuy nhiên, trong khi tạm giữ, tạm giam họ, vẫn có thể cho phép họ được đến trụ sở tổ chức tín dụng để tính toán sổ sách, cho họ được đi thu nợ hoặc buộc họ phải đi đòi nợ dưới sự quản lý của cảnh sát, sự giám sát của Ủy ban nhân dân hoặc Ban xử lý, sau đó đưa họ vào nơi tạm giữ, tạm giam.

7. Đối với những người vay tiền với số lượng lớn đã quá hạn, những người cố tình chây ỳ, trốn tránh không trả nợ mặc dù đã được thông báo, nhắc nhở nhiều lần v.v… thì cơ quan điều tra phải tạm giữ họ. Nếu trong thời gian bị tạm giữ mà họ trả được nợ hoặc có người trả nợ thay cho họ hay có người dùng tài sản mình có giá trị tương đương với số tiền còn nợ làm vật bảo đảm cho việc trả nợ của họ, thì trả tự do cho họ.

[...]