BỘ
LÂM NGHIỆP-BỘ TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
10-TT/LB
|
Hà
Nội , ngày 13 tháng 3 năm 1982
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
CỦA BỘ LÂM NGHIỆP - TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC SỐ
10-TT/LB NGÀY 13 THÁNG 3 NĂM 1982 HƯỚNG DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 88-HĐBT NGÀY
24-9-1981 CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ LẬP QUỸ NUÔI RỪNG.
Ngày 24 tháng 9 năm 1981 Hội đồng
Bộ trưởng đã ra Quyết định số 88-HĐBT về việc lập quỹ nuôi rừng.
Để thi hành quyết định trên Liên
Bộ Lâm Nghiệp - Tài chính đã ra quyết định về việc thu tiền nuôi rừng. Nay liên
Bộ Lâm nghiệp - Tài chính - Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn việc lập và sử dụng quỹ
nuôi rừng như sau,
I. NGUYÊN TẮC
CHUNG
1. Quỹ nuôi rừng là một bộ phận
của ngân sách Trung ương được hình thành từ khoản thu tiền nuôi rừng (sau khi
đã trừ 10% nộp ngân sách địa phương) và chuyên dùng cho các việc đã quy định
trong Điều 5 Quyết định số 88-HĐBT (dưới đây gọi tắt là vốn xây dựng rừng và
kinh phí bảo vệ rừng). Nhà nước giao cho Bộ Lâm nghiệp tổ chức, chỉ đạo lập và
sử dụng quỹ nôi rừng để xây dựng và bảo vệ rừng một cách có hiệu quả.
2. Quỹ nuôi rừng được sử dụng thống
nhất cho nhu cầu cả nước bao gồm nhu cầu của các đơn vị, tổ chức thuộc Trung
ương và nhu cầu của các đơn vị tổ chức thuộc địa phương quản lý theo chỉ tiêu kế
hoạch Nhà nước và phải quản lý theo quy định tại Thông tư liên bộ số 26-TT/LB
ngày 17-7-1981 và hướng dẫn trong Thông tư liên bộ này.
II. NỘI DUNG
THU VÀ CHI QUỸ NUÔI RỪNG
A. NGUỒN THU CỦA QUỸ NUÔI RỪNG
1. Tiền nuôi rừng thu được từ
các loại sản phẩm lấy ở rừng. Mức thu của từng loại được quy định cụ thể trong
Quyết định số 1101-QĐ/LB ngày 23-10-1981 của liên bộ Lâm nghiệp - Tài chính và
các văn bản được bổ sung tiếp theo.
2. Tiền phạt và các khoản bồi
thường do việc xử lý các vụ phạm pháp về lâm nghiệp.
B. PHẦN CHI CỦA QUỸ NUÔI RỪNG
Quỹ nuôi rừng được chi cho việc
sau đây:
1. Chi sự nghiệp.
Chi công tác quản lý rừng:
- Chi xác định ranh giới giữa
lâm phận rừng các loại để xây dựng thành tiểu khu rừng;
- Chi về giao đất giao rừng cho
hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, các đơn vị kinh tế quốc doanh ngoài lâm nghiệp,
cơ quan, quân đội, trường học theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước.
Chi cho công tác bảo vệ rừng:
- Chi phòng chống cháy rừng;
- Chi phòng trừ sâu bệnh;
- Chi huấn luyện lực lượng quần
chúng bảo vệ rừng và tuyên truyền nhân dân bảo vệ rừng.
- Chi cho lực lượng kiểm lâm
nhân dân và các cán bộ bán chuyên trách về quản lý bảo vệ rừng theo chính sách
chế độ của Nhà nước.
b) Chi cho việc điều chế rừng:
- Xây dựng phương án chương
trình điều chế;
- Áp dụng phương án chương trình
điều chế vào thực địa bao gồm công tác lâm sinh trước và sau khai thác hàng
năm.
c) Chi hỗ trợ nhân dân trồng cây
phân tán, thực hiên theo nguyên tắc dân trồng, dân hưởng, Nhà nước hướng dẫn kỹ
thuật, xây dựng đơn vị điển hình, xây dựng vườn ươm, và bù lỗ cho các đơn vị
cung cấp giống, cây con khi cần thiết.
2. Chi đầu tư xây dựng cơ bản
a) Chi trồng rừng mới, phủ xanh
đồi trọc.
b) Chi tu bổ, cải tạo tái sinh rừng
tự nhiên.
c) Chi đầu tư góp vốn cùng hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất trong các vùng quy hoạch trồng rừng tập trung đã được
giao đất giao rừng nhằm cung cấp nguyên liệu cho Nhà nước (dưới đây gọi tắt là
Hợp tác xã, tập đoàn sản xuất).
d) Chi cho công tác xây dựng cơ
bản nhằm phục vụ cho việc trồng, chăm sóc, tu bổ, cải tạo, quản lý và bảo vệ rừng
như xây vườn ươm cây con, đường sá, thuỷ lợi, nhà cửa (nhà ở, nhà làm việc, nhà
kho, hội trường, câu lạc bộ, trạm xá, bênh xá, trường học ...), mua sắm máy móc
thiết bị và tài sản cố định khác.
3. Các khoản chi tiêu nói trên
căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật, tài chính do Bộ Lâm nghiệp quy định.
Riêng định mức tài chính Bộ Lâm nghiệp cần thoả thuận với Bộ Tài chính trước
khi ban hành.
Các đơn vị không được dùng quỹ
nuôi rừng chi vào việc khác ngoài các quy định trên đây, ngân sách địa phương
(tỉnh, huyện) không dự toán và cấp phát cho các nội dung chi tiêu nói trên trừ
trường hợp Bộ Lâm nghiệp chuyển tiền và uỷ nhiệm cho ngân sách địa phương cấp
phát.
III. TỔ CHỨC
LẬP KẾ HOẠCH, THỰC HIỆN KẾ HOẠCH VÀ QUYẾT TOÁN KẾT QUẢ THU VÀ CHI QUỸ NUÔI RỪNG
1. Lập kế hoạch thu và chi quỹ
nuôi rừng.
Từng thời kỳ kế hoạch Bộ lâm
nghiệp chỉ đạo việc lập kế hoạch thu và chi quỹ nuôi rừng, đồng thời với kế hoạch
sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản, sự nghiệp bảo vệ rừng trong toàn ngành. Bộ
Lâm nghiệp giao số kiểm tra thu và chi hướng dẫn, xét duyệt và giao nhiệm vụ kế
hoạch cho các sở, Ty lâm nghiệp và các đơn vị trực thuộc. Các Sở, Ty lâm nghiệp
và các đơn vị trực thuộc giao số kiểm tra, hướng dẫn xét duyệt và giao nhiệm vụ
kế hoạch cho các đơn vị thuộc mình quản lý.
a) Kế hoạch thu, nộp:
- Các đơn vị kinh tế quốc doanh
lâm nghiệp trực tiếp khai thác lâm sản, căn cứ vào số kiểm tra và hướng dẫn của
cơ quan chủ quản cấp trên để lập kế hoạch nộp tiền nuôi rừng.
- Các đơn vị thuộc lực lượng kiểm
lâm nhân dân căn cứ vào khả năng vốn rừng hiện có và tình hình khai thác lâm sản
dự kiến mức độ có thể cho phép các đơn vị quốc doanh, ngoài quốc doanh khai
thác lâm nghiệp và các tập thể, cá thể khai thác sản phẩm của rừng trong khu vực
mình quản lý để lập kế hoạch thu, nộp tiền nuôi rừng.
Sau khi được cơ quan chủ quản cấp
trên duyệt kế hoạch thu, nộp tiền nuôi rừng thì đơn vị có kế hoạch được duyệt
phải thông báo trong phạm vi 10 ngày (kể từ khi đơn vị nhận được thông báo duyệt)
cho cơ quan tài chính địa phương biết.
b) Kế hoạch chi:
Chi về sự nghiệp.
Căn cứ để xây dựng kế hoạch chi
về sự nghiệp thuộc quỹ nuôi rừng và biên chế của lực lượng kiểm lâm nhân dân,
là dự toán chi phí của đơn vị sự nghiệp khác tính theo từng dịch vụ và khối lượng
công việc của các đơn vị đó phụ trách trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật,
tài chính đã được cấp có thẩm quyền quy định.
Chi đầu tư xây dựng cơ bản.
Kế hoạch vốn xây dựng cơ bản phải
lập theo nhiệm vụ kế hoạch và dự toán về công trình hoặc hạng mục công trình phải
đưa vào sử dụng trong năm theo quy định trong điều lệ xây dựng cơ bản hiện
hành.
2. Tổng hợp kế hoạch thu, chi quỹ
nuôi rừng.
a) Các cơ quan chủ quản cấp
trên, đơn vị trực thuộc Bộ quản lý có trách nhiệm xét duyệt, tổng hợp kế hoạch
thu, chi quỹ nuôi rừng của các cơ sở thuộc mình quản lý kịp thời gửi về Bộ xét
duyệt theo đúng quy định của Bộ Lâm nghiệp (nếu không có cơ quan chủ quản cấp
trên thì các đơn vị trực thuộc lập và gửi kế hoạch trực tiếp về Bộ xét duyệt).
b) Sở, Ty lâm nghiệp có trách
nhiệm xét duyệt và tổng hợp kế hoạch thu chi quỹ nuôi rừng của các đơn vị thuộc
địa phương quản lý (gồm cả phần quốc doanh, hợp tác xã và phần hỗ trợ nhân dân
trồng cây, nếu có) trình Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc
trung ương cho ý kiến trước khi gửi về Bộ Lâm nghiệp.
c) Bộ lâm nghiệp có trách nhiệm
xét duyệt kế hoạch cho các địa phương, các đơn vị trực thuộc và tổng hợp kế hoạch
thu và chi quỹ nuôi rừng toàn ngành trong kế hoạch chung của Bộ gửi uỷ ban Kế
hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính để xem xét, cân đối chung trong kế hoạch đầu tư của
Nhà nước và dự toán ngân sách Nhà nước.
Các Kế hoạch nói trên phải phân
chia ra từng quý theo từng loại: các đơn vị quốc doanh thuộc trung ương quản
lý, các đơn vị quốc doanh thuộc địa phương quản lý; tập thể, cá thể; phần đầu
tư xây dựng cơ bản, phần kinh phí sự nghiệp theo đúng biểu mẫu và thời gian quy
định của Bộ Lâm nghiệp.
3. Tổ chức thực hiện kế hoạch
Căn cứ kế hoạch đã được Hội đồng
Bộ trưởng duyệt, Bộ Lâm nghiệp thông báo kế hoạch năm (có chia 4 quý) về thu,
chi quỹ nuôi rừng co từng Sở, Ty lâm nghiệp từng đơn vị trực thuộc báo phần xây
dựng cơ bản cho ngân hàng đầu tư, phần thu quỹ nuôi rừng cho Ngân hàng Nhà nước
biết.
Căn cứ vào tiến độ thực hiện của
các đơn vị và các địa phương, Bộ Lâm nghiệp điều hoà vật tư, tiền vốn từ nơi thừa
sang nơi thiếu trong phạm vi tổng mức đã được Nhà nước duyệt, sau khi đã tham
khảo ý kiến của địa phương và thông báo kịp thời cho Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước,
Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước biết.
a) Tổ chức thu nộp tiền nuôi rừng.
Các đơn vị có trách nhiệm nộp tiền
nuôi rừng phải nộp đúng thời gian và thể lệ đã quy định. Mỗi lần nộp tiền vào
quỹ nuôi rừng, các đơn vị phải tiến hành đồng thời nộp 10% vào ngân sách địa
phương. Trên giấy nộp tiền vào quỹ nuôi rừng (90%) phải ghi chú số tiền đã nộp
vào ngân sách địa phương cùng lần để thay báo cáo.
Đối với đơn vị kinh tế quốc
doanh lâm nghiệp.
Tiền nuôi rừng (90%) nộp quỹ
nuôi rừng trung ương (do Bộ Lâm nghiệp quy định cụ thể cho phù hợp từng loại
hình xí nghiệp) bằng chuyển khoản, đồng thời nộp vào ngân sách địa phương 10% bằng
giấy nộp tiền tính theo từng kỳ nộp; mỗi tháng nộp 2 kỳ theo kế hoạch, kì 1 từ
ngày 1 đến ngày 5 nộp từ 40 đến 50% kế hoạch, kỳ 2 từ ngày 15 đến ngày 20 nộp từ
60 đến 50% kế hoạch và thanh toán số nộp theo thực tế sau khi được cơ quan kiểm
lâm nhân dân xác nhận. Hàng tháng đơn vị phải báo cáo cho cơ quan chủ quản cấp
trên và cơ quan tài chính trực tiếp tình hình thực hiện nộp tiền nuôi rừng và
thông báo cho cơ quan kiểm lâm nhân dân quản lý khu vực biết. Các chi cục và hạt
kiểm lâm nhân dân có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra các đơn vị kinh tế quốc
doanh lâm nghiệp nộp đúng và đủ tiền nuôi rừng cho quỹ nuôi rừng trung ương và
ngân sách địa phương.
Đối với các tổ chức kinh tế quốc
doanh ngoài ngành lâm nghiệp và các cơ quan, quân đội, các tổ chức tập thể, cá
thể được phép khai thác lâm sản đặc sản rừng.
Nếu đơn vị, tập thể, cá nhân được
phép khai thác những lâm sản chủ yếu như gỗ, củi, tre, nữa... thì phải nộp tiền
nuôi rừng ngay từ khi được cấp giấy phép khai thác, đơn vị nào có tài khoản ở
ngân hàng thì nhất thiết phải nộp tiền nuôi rừng bằng chuyển khoản, đơn vị, tập
thể, cá nhân nào không có tài khoản ở ngân hàng thì được phép nộp bằng tiền mặt
cho cơ quan kiểm lâm nhân dân quản lý khu vực. Sau khi khai thác xong, người
khai thác phải báo cho kiểm lâm nhân dân biết để đến tại chỗ kiểm tra, xác nhận
khối lượng khai thác và thanh toán tiền nuôi rừng theo thực tế.
Đối với những lâm sản khác và đặc
sản rừng mà nhân dân những xã nơi có rừng được phép khai thác thì người khai
thác phải nộp tiền nuôi rừng tại các hạt, trạm kiểm lâm nhân dân gần nhất. Đối
với lâm sản Nhà nước cho phép cơ quan hoặc tổ chức kinh tế có trách nhiệm thu
mua tại chỗ thì cơ quan hoặc tổ chức kinh tế thu mua phải nộp tiền nuôi rừng tại
các hạt kiểm lâm nhân dân gần nhất.
Hệ thống kiểm lâm nhân dân được
liên Bộ lâm nghiệp - Tài chính giao nhiệm vụ thực hiện việc thu nộp tiền nuôi rừng
và xử lý các vụ phạm pháp về lâm nghiệp. Để hoàn thành nhiệm vụ trên, kiểm lâm
nhân dân phải có biện pháp tổ chức thu nộp đầy đủ, kịp thời tránh thất thu nộp
đầy đủ, kịp thời tránh thất thu và chống các hiện tượng tiêu cực. Những ấn chi
thu tiền nuôi rừng do Cục kiểm lâm nhân dân thống nhất ấn hành và quản lý theo
nguyên tắc ấn chi thu thuế quy định tại Thông tư số 15-ST/KT ngày 2-1-1958 của
Sở thuế Trung ương. Số lượng ấn hành phải báo cho Bộ Lâm nghiệp và Bộ Tài chính
biết. Khi các đơn vị kiểm lâm nhân dân lĩnh ấn chi về dùng phải đăng ký với cơ
quan tài chính cùng cấp. Hàng quý, năm phải tổng hợp báo cáo quết toán với cơ
quan cấp trên trực tiếp quản lý và cơ quan tài chính cùng cấp về những quyển
biên lai đã sử dụng và phải lưu trữ theo chế độ lưu trữ hiện hành.
Hạt kiểm lâm nhân dân được mở
tài khoản chuyên thu tại Ngân hàng Nhà nước nơi đóng trụ sở. Tài khoản này để
thu tiền nuôi rừng và trích nộp vào ngân sách địa phương theo tỷ lệ quy định
10% cũng như nộp quỹ nuôi rừng 90% về tài khoản chuyên thu của chi cục. Mức tồn
khoản ở hạt không được quá 1000 đồng. Nếu vượt quá mức quy định thì hạt phải
làm thủ tục nộp ngay.
Chi cục kiểm lâm nhân dân được mở
tài khoản chuyên thu tiền nuôi rừng và nộp theo tỷ lệ quy định như trên. Riêng
về tiền quỹ nuôi rừng do các hạt nộp lên thì chi cục cần mở 1 tiểu khoản trong
tài khoản chuyển thu để tập trung trước khi chuyển về quỹ nuôi rừng trung ương
(số tiển ở tiểu khoản này không nộp ngân sách địa phương). Mức tồn khoản của
chi cục (bao gồm tiểu khoản tập trung quỹ nuôi rừng do các hạt nộp lên) không
được vượt quá 3000 đồng.
Đối với các trường hợp được phép
thu bằng tiền mặt, thì các hạt, chi cục kiểm lâm nhân dân phải nộp kịp thời vào
tài khoản chuyển thu tiền nuôi rừng mở tại ngân hàng. Mức tồn quỹ tiền mặt về
khoản thu này tại hạt cũng như chi cục không được vượt quá 300 đồng.
Các đơn vị kiểm lâm nhân dân phải
báo cáo tình hình thu nộp tiền nuôi rừng hàng tháng theo quy định sau đây:
Ngày 10 tháng sau hạt kiểm lâm
nhân dân có báo cáo tháng trước gửi về Chi cục đồng gửi ban tài chính giá cả
huyện kèm theo bảng sao kê tài khoản chuyên thu tiền nuôi rừng của hạt có xác
nhận của Ngân hàng huyện.
Các chi cục kiểm lâm nhân dân tổng
hợp tình hình thu nộp tiền nuôi rừng của tháng trước trong toàn tỉnh kèm theo bảng
sao kê tài khoản chuyển thu tiền nuôi rừng của Chi cục có xác nhận của ngân
hàng tỉnh gửi về Cục kiểm lâm nhân dân đồng gửi các Sở, Ty tài chính trước ngày
20 hàng tháng.
Cục Kiểm lâm nhân dân tổng hợp
tình hình thu, nộp tiền nuôi rừng trong cả nước của tháng trước báo cáo Bộ Lâm
nghiệp và Bộ Tài chính trước ngày 30 hàng tháng.
b) Cấp phát quỹ nuôi rừng
Quỹ nuôi rừng được cấp phát để
chi theo đúng nội dung quy định trong mục B phần II trên đây.
Cấp phát để chi về sự nghiệp (điểm
1, mục B, phần II).
Bộ Lâm nghiệp căn cứ vào kế hoạch
đã thông báo, hàng quý trích tiền từ quỹ nuôi rừng Trung ương chuyển cho các Sở,
ty lâm nghiệp và các đơn vị trực thuộc. Các Sở, ty lâm nghiệp, các đơn vị trực
thuộc chuyển tiền cho các đơn vị thuộc mình quản lý chi tiêu theo kế hoạch đã
duyệt.
Các đơn vị được chi tiêu bằng quỹ
nuôi rừng được mở tài khoản chuyển chi quỹ nuôi rừng tại Ngân hàng Nhà nước cơ
sở để nhận và sử dụng kinh phí được cấp. Hàng tháng, quý và cuối năm các đơn vị
này phải báo cáo tình hình sử dụng kinh phí được cấp, số dư tài khoản chuyển
chi quỹ nuôi rừng lên cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp để tổng hợp báo cáo về
Bộ Lâm nghiệp.
Cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ
bản (điểm 2. mục B. Phần II).
Căn cứ vào kế hoạch đầu tư và kế
hoạch tài chính đầu tư xây dựng cơ bản bằng quỹ nuôi rừng, Bộ Lâm nghiệp trích
tiền từ quỹ nuôi rừng chuyển sang tài khoản vốn tự có đầu tư xây dựng cơ bản bằng
quỹ nuôi rừng mở tại Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam (trung ương). Việc
chuyển tiền tiến hành hàng quý. Nếu số thu không đủ thì có thể chuyển nhiều lần
trong quý để đủ vốn. Hàng quý Bộ Lâm nghiệp sẽ phân phối vốn và chuyển tiền từ
tài khoản này về tài khoản vốn tự có đầu tư xây dựng cơ bản bằng quỹ nuôi rừng
của các Sở, Ty lâm nghiệp, liên hiệp lâm công nghiệp, công ty... lâm trường
(thuộc trung ương) mở tại Ngân hàng đầu tư và xây dựng địa phương. Nếu tình
hình thu không bảo đảm thì có thể chuyển nhiều lần trong quỹ. Các đơn vị có tài
khoản nói trên giao nhiệm vụ thi công cho các lâm trường trực thuộc, dùng vốn đầu
tư Bộ Lâm nghiệp đã chuyển về để thanh toán các công trình và hạng mục công
trình hoàn thành đưa vào sử dụng. Việc xác định công trình và hạng mục công
trình hoàn thành do Bộ Lâm nghiệp và Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam hướng
dẫn cụ thể phù hợp với đặc điểm xây dựng cơ bản ngành lâm nghiệp. Trên cơ sở
biên bản nghiệm thu công trình và hạng mục công trình hoàn thành của hội đồng
nghiệm thu cơ sở, các Sở, Ty lâm nghiệp, liên hiệp lâm công nghiệp, công ty...
lâm trường (thuộc trung ương) kiểm tra xác nhận theo uỷ quyền của Bộ lâm nghiệp
và làm thủ tục đề ngân hàng đầu tư và xây dựng thanh toán. Hàng tháng và hàng
quý (cuối tháng, cuối quý) các Sở, Ty lâm nghiệp, liên hiệp lâm công nghiệp,
công ty... lâm trường (thuộc trung ương) phải báo cáo về Bộ Lâm nghiệp số công
trình và hạng mục hoàn thành được thanh toán và số tiền đã thanh toán. Các đơn
vị lâm nghiệp thi công theo hình thức tự làm (quan hệ A, B nội bộ) thì được vay
vốn tại ngân hàng đầu tư và xây dựng để chuẩn bị vật liệu, cây con, phân bón,
chi phí thi công dở dang theo chế độ hiện hành.
Ngân hàng đầu tư và xây dựng có
trách nhiệm kiểm tra chặt chữ các công trình hoàn thành đưa vào sử dụng và cùng
cơ quan tài chính địa phương kiểm tra xác nhận việc thanh quyết toán các công
trình đó nhằm bảo đảm chi quỹ nuôi rừng đúng mục đích, đúng quy định và đem lại
hiệu quả thiết thực. Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam sẽ thông báo số tồn
khoản hàng quý cho Bộ Lâm nghiệp bằng phiếu đối chiếu tài khoản.
c) Cuối năm Bộ Lâm nghiệp phải tổng
hợp số dư tài khoản quỹ nuôi rừng của các đơn vị trong toàn ngành (chi sự nghiệp
bảo vệ rừng và thanh toán công trình, hạng mục công trình xây dựng cơ bản đã
hoàn thành). Sau đó Bộ Lâm nghiệp cùng làm việc với Bộ Tài chính xác định số tiền
được chuyển sang năm sau cũng như số tiền phải nộp vào ngân sách trung ương
ngay từ đầu năm theo tỷ lệ đã quy định trong Quyết định số 88-HĐBT của Hội đồng
Bộ trưởng.
4. Quyết toán số tiền thu chi bằng
quỹ nuôi rừng.
Mỗi khoản thu chi của quỹ nuôi rừng
phải được quyết toán hàng quý, hàng năm theo chế độ báo cáo quyết toán hiện
hành về kinh phí sự nghiệp, về vốn đầu tư xây dựng cơ bản và phần thu nộp quỹ
nuôi rừng.
Các đơn vị thuộc lực lượng kiểm
lâm nhân dân quyết toán phần thu nộp quỹ nuôi rừng theo hệ thống dọc, tổng hợp
từ cơ sở lên báo cáo Bộ Lâm nghiệp.
Các đơn vị trực tiếp chi tiêu bằng
quỹ nuôi rừng phải quyết toán riêng từng phần vốn kinh phí sự nghiệp, vốn đầu
tư xây dựng cơ bản cũng như báo cáo công trình và hạng mục hoàn thành đã đưa
vào sử dụng lên cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp.
Các liên hiệp lâm công nghiệp,
các công ty... có trách nhiệm xét duyệt quyết toán cho các đơn vị thuộc mình quản
lý và tổng hợp quyết toán gửi về Bộ Lâm nghiệp.
Các Sở, Ty lâm nghiệp xét duyệt
và tổng hợp quyết toán của các đơn vị thuộc địa phương quản lý gửi về Bộ Lâm
nghiệp.
Bộ Lâm nghiệp tổng hợp báo cáo
quyết toán thu và chi quỹ nuôi rừng gửi Bộ Tài chính đúng thời gian kịp tổng hợp
vào báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước hàng năm.
Các cơ quan tài chính địa phương
có trách nhiệm kiểm tra báo cáo quyết toán của các đơn vị và có kiến nghị cần
thiết với cơ quan chủ quản lâm nghiệp cấp trên dơn vị trước khi các cơ quan này
duyệt quyết toán.
IV. VIỆC THƯỞNG
PHẠT
Ngoài việc thưởng phạt theo chế
độ của Nhà nước đã quy định cho các đơn vị sản xuất kinh doanh và hành chính sự
nghiệp, các đơn vị có thu chi bằng quỹ nuôi rừng nếu đem lại hiệu quả thiết thực
tính được bằng giá trị cụ thể thì được sử dụng một phần giá trị để làm quỹ khen
thưởng.
1. Khen thưởng: Tất cả các đơn vị,
tập thể, cá nhân có thành tích trong việc xây dựng vốn rừng và bảo vệ rừng đều
được xét thưởng.
a) Đối với các đơn vị kinh tế quốc
doanh lâm nghiệp.
Các đơn vị hoàn thành được kế hoạch
trồng, chăm sóc, tu bổ, cải tạo, quản lý, bảo vệ rừng theo đúng quy trình kỹ
thuật, bảo đảm được tỷ lệ cây sống; thời gian khép tán, và diện tích thành rừng
theo quy định mà vẫn tiết kiệm được chi phí thì được trích 70% số tiền tiết kiệm
do hạ thấp toàn bộ giá thành thực tế so với giá thành dự toán và hiệu quả tiết
kiệm tính được bằng giá trị cụ thể làm quỹ khen thưởng (trong đó đơn vị được
thưởng phải nộp 20% vào quỹ khen thưởng và khuyến khích, áp dụng mở rộng, tổ chức
hợp lý và kỹ thuật mới của Bộ). Còn 30 % nộp vào quỹ nuôi rừng.
Mức thưởng cho cán bộ, công nhân
viên có thành tích sử dụng tiền nuôi rừng tiết kiệm và có hiệu quả không được
vượt quá 3 tháng lương (lương cấp bậc bình quân và phụ cấp lương tạm thời), nếu
vượt quá số đó thì chuyển nộp về quỹ khen thưởng của Bộ.
b) Đối với lực lượng kiểm lâm
nhân dân
Các đơn vị kiểm lâm nhân dân có
thành tích trong việc quản lý, bảo vệ rừng, hoàn thành vượt mức kế hoạch thu nộp
tiền nuôi rừng theo đúng chế độ, chính sách sẽ được bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp xét
khen thưởng hoàn thành kế hoạch. Mức thưởng cho cán bộ, công nhân viên không được
vượt quá 2 tháng lương (lương cấp bậc bình quân và phụ cấp tạm thời).
c) Quỹ tiền thưởng của Bộ Lâm
nghiệp do các đơn vị nộp lên chỉ được giữ tối đa bằng 0,2% tổng số tiền quỹ
nuôi rừng thu được hàng năm. Nếu vượt quá số đó thì phải nộp số vượt vào ngân
sách trung ương.
d) Những người có công phát hiện
và tham gia bắt các vụ phạm pháp về lâm nghiệp (kể cả kiểm lâm nhân dân) thì được
xét thưởng theo quyết định số 312-CP ngày 1-10-1980 của Hội đồng chính phủ.
2. Kỷ luật: Các đơn vị kinh tế
quốc doanh lâm nghiệp không hoàn thành kế hoạch nộp tiền nuôi rừng, hoặc không
nộp đúng thời hạn... thì sẽ bị phạt giảm trừ khi trích quỹ xí nghiệp như quy định
trong thông tư số 3-TC/CNXD ngày 28-3-1978 của Bộ Tài chính.
Các đơn vị kiểm lâm nhân dân nếu
có sai phạm về quản lý bảo vệ rừng, chấp hành chế độ, chính sách... thì sẽ bị
phạt giảm trừ khi xét thưởng hoàn thành kế hoạch tuỳ theo lỗi nặng nhẹ do Bộ
trưởng Bộ Lâm nghiệp quyết định.
V. TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
Việc lập quỹ nuôi rừng là một vấn
đề rất mới mẻ, đòi hỏi phải có sự quan tâm đầy đủ của các ngành, các cấp nhằm tạo
điều kiện thuận lợi đưa công tác trồng khai thác, quản lý, bảo vệ rừng vào nề nếp.
Yêu cầu Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương tổ chức và tạo điều kiện để các cơ sở
kinh tế lâm nghiệp của địa phương thực hiện đúng quy định trong Thông tư liên Bộ
này, đồng thời thực hiện chức năng của chính quyền địa phương đối với các đơn vị
kinh tế lâm nghiệp trung ương đóng tại địa phương theo quy định hiện hành.
Các Sở, Ty lâm nghiệp, tài
chính, ngân hàng theo chức năng của mỗi ngành giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh tổ chức
chỉ đạo thực hiện Thông tư này sát với tình hình thực tế từng địa phương.
Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1982. Những quy định trước đây trái với Thông tư
này đều bãi bỏ.
Phạm
Học Lâm
(Đã
ký)
|
Võ
Trí Cao
(Đã
ký)
|
Trần
Văn Quế
(Đã
ký)
|