Thông tư liên bộ 02-TT/LB năm 1959 về việc trợ cấp thù lao cho trưởng trạm bưu chính xã do Bộ Giao Thông và Bưu Điện- Bộ Nội Vụ- Bộ Tài Chính ban hành
Số hiệu | 02-TT/LB |
Ngày ban hành | 26/01/1959 |
Ngày có hiệu lực | 01/01/1959 |
Loại văn bản | Thông tư liên tịch |
Cơ quan ban hành | Bộ Giao thông và Bưu điện,Bộ Nội vụ,Bộ Tài chính |
Người ký | Nguyễn Hữu Mai,Tô Quang Đẩu,Trịnh Văn Bính |
Lĩnh vực | Lao động - Tiền lương |
BỘ
GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN-BỘ NỘI VỤ-BỘ TÀI CHÍNH |
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 02-TT/LB |
Hà Nội, ngày 26 tháng 01 năm 1959 |
VỀ VIỆC TRỢ CẤP THÙ LAO CHO TRƯỞNG TRẠM BƯU CHÍNH XÃ
Kính gửi: |
- Ủy ban hành chính các khu,
thành phố và các tỉnh |
Thi hành Thông tư số 403-TTg ngày 14-8-1958 của Thủ tướng phủ về việc trợ cấp thù lao và công tác phí, hội nghị phí cho cán bộ, xã.
Căn cứ Thông tư số 04-TT/LB ngày 4-2-1958 của Liên Bộ Giao thông Bưu điện- Nội vụ về việc chấn chỉnh đường thu trong huyện và trạm bưu chính xã ở đồng bằng và trung du.
Trong thời gian chờ đợi nghiên cứu vấn đề phân cấp và cải tiến chế độ cước khoán hiện nay, Liên bộ tạm thời quyết định trợ cấp thù lao cho trưởng trạm bưu chính xã như sau:
a) Trưởng trạm bưu chính xã ở đồng bằng
Được hưởng ngang thù lao cán bộ thường trực ở Ủy ban xã (mỗi tháng được trợ cấp 10.000 đồng).
b) Trưởng trạm bưu chính xã ở miền núi
Nếu phải làm việc hàng ngày như cán bộ thường trực Ủy ban xã thì cũng được hưởng ngang thù lao cán bộ thường trực ở Ủy ban xã (vùng rẻo thấp 12.000 đồng, vùng rẻo cao 14.000 đồng).
Nếu làm việc theo chuyển thư, không làm hàng ngày như cán bộ thường trực Ủy ban xã, thì được hưởng ½ định suất hoặc 2/3 định suất thù lao của cán bộ thường trực đã quy định do Ủy ban hành chính các khu, tỉnh quyết định.
Thư ký văn phòng Ủy ban xã kiêm nhiệm trưởng trạm ở những nơi không tổ chức trưởng trạm bưu chính riêng, nếu đã được nhận thù lao theo chế độ mới, quy định trong Thông tư số 403-TTg của Thủ tướng phủ, thì không trợ cấp thêm phần thù lao về phần công tác bưu chính xã.
Hiện nay Bưu điện đang thu mỗi xã 30 cân gạo để tổ chức đường thư từ huyện về xã và trả thù lao cho trường trạm bưu chính xã. Trong thời gian chờ đợi cải tiến chế độ cước khoán, thì Bưu điện giữa lại 12 cân, còn 18 cân giao cho Ủy ban xã để trả trợ cấp thù lao cho trưởng trạm bưu chính xã. Riêng đối với miền núi, nơi nào trưởng trạm bưu chính xã do văn phòng Ủy ban kiêm nhiệm, thì Bưu điện không phải giao cho Ủy ban 18 cân gạo mà vẫn giữ lại để tổ chức đường thư chung từ huyện xuống xã.
Các khu, Ty Bưu điện và Khu, Sở, Ty Tài chính cần thảo luận cách thức chuyển giao tiền về xã.
Phần chênh lệch về thù lao mà trưởng trạm bưu chính xã được nhận thêm, do ngân sách xã đài thọ, không lấy trong số suất dự trù của xã. Nơi nào ngân sách xã không đủ thì tỉnh sẽ cấp thêm để xã đủ chi. Hàng tháng Ủy ban hành chính xã trực tiếp cấp phần chênh lệch đó cho trưởng trạm, không giao Bưu điện thanh toán.
Ví dụ: ở đồng bằng lâu nay trưởng trạm được được nhận 7.200đ nay được trợ cấp thêm 2.800 đồng nữa cho đủ 10.000 đồng.
Thông tư này thi hành kể từ ngày mùng một tháng 1 năm 1959.
KT.
BỘ TRƯỞNG |
KT.
BỘ TRƯỞNG |
KT.
BỘ TRƯỞNG |