PHỦ
THỦ TƯỚNG
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
403-TTg
|
Hà
Nội , ngày 14 tháng 08 năm 1958
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC TRỢ CẤP THÙ LAO VÀ CÔNG TÁC PHÍ, HỘI NGHỊ PHÍ CHO
CÁN BỘ XÃ
Trong thời gian vừa qua, một số địa
phương đã chấp hành chủ trương của Trung ương về việc trợ cấp thù lao và công
tác phí, hội nghị phí cho cán bộ xã nên đã giúp cho cán bộ xã giải quyết được một
phần khó khăn trong sinh hoạt, để yên tâm, tích cực công tác.
Tuy nhiên còn nhiều địa phương,
trong việc thi hành chủ trương đã có nhiều thiếu sót và lệch lạc, như:
- Nhiều nơi đã chia suất trợ cấp
ra làm nhiều suất nhỏ, không theo đúng những điều đã quy định.
- Một số xã lại tập trung số gạo
trợ cấp tại trụ sở để cán bộ nào đến phiên thường trực thì ăn, hoặc tổ chức ăn
chung khi hội họp, hoặc dùng làm công tác phí.
- Có cán bộ không làm việc lại
được trợ cấp, ngược lại có cán bộ làm việc nhiều, nhưng được trợ cấp thù lao
không thích đáng.
- Nhiều địa phương không cấp
công tác phí cho cán bộ xã khi lên tỉnh, huyện hội họp.
Thậm chí, có huyện, tỉnh triệu tập
cán bộ xã lên họp cũng không cấp tiền ăn để cán bộ xã phải tự túc. Có nơi chỉ cấp
công tác phí cho cán bộ chính quyền, không cấp cho cán bộ đoàn thể ở xã.
Những thiếu sót, sai lệch như
trên đã làm giảm ý nghĩa, mục đích của việc trợ cấp thù lap và công tác phí, hội
nghị phí cho cán bộ xã, ảnh hưởng đến tình đoàn kết và tinh thần công tác của
cán bộ xã.
I – Ý NGHĨA
CỦA VIỆC TRỢ CẤP THÙ LAO VÀ CÔNG TÁC PHÍ, HỘI NGHỊ PHÍ CHO CÁN BỘ XÃ
Các bộ xã không phải là cán bộ
thoát ly sản xuất. Đặc điểm của cán bộ xã là vừa tham gia công tác, vừa tham
gia sản xuất. Cán bộ xã có tham gia sản xuất thì mới bảo đảm đời sống cho bản
thân và gia định và mới có điều kiện thuận tiện để liên hệ chặt chẽ với nhân
dân và lãnh đạo nhân dân.
Nhưng hiện nay cán bộ xã đang gặp
khó khăn trong việc kết hợp sản xuất và công tác. Nói chung cán bọ xã, nhát là
những cán bộ chủ chốt, bận nhiều về công tác, ít có thì giờ sản xuất nên không
giúp đỡ được gia đình giải quyết khó khăn trong sinh hoạt. Ngược lại tình hình
sinh hoạt khó khăn của gia đình đã ảnh hưởng đến tinh thần công tác của cán bộ
xã.
Để giải quyết khó khăn nói trên
của cán bộ xã, cần phải có một kế hoạch toàn diện bao gồm nhiều mặt: cải tiến tổ
chức và lề lối làm việc ở xã, cải tiến lề lối làm việc của cấp trên đối với xã,
tránh tình trạng cấp trên dồn việc xuống xã, thiếu kế hoạch, thiếu kết hợp, phối
hợp, gây khó khăn cho cán bộ xã trong công tác, trong sản xuất.
Việc trợ cấp thù lao và công tác
phí, hội nghị phí cho cán bộ xã không phải là việc trả lương cho cán bộ xã. Nó
nhằm giúp đỡ một số cán bộ xã vì bận công tác mất nhiều thì giờ sản xuất, giải
quyết một phần khó khăn trong sinh hoạt.
Việc trợ cấp thù lao và công tác
phí, hội nghị phí là căn cứ vào tình hình nông thôn và hoàn cảnh công tác hiện
nay của cán bộ xã mà quy định.
II – YÊU CẦU
CỦA VIỆC TRỢ CẤP THÙ LAO VÀ CÔNG TÁC PHÍ, HỘI NGHỊ PHÍ
Để đạt được ý nghĩa trên, việc
trợ cấp thù lao và công tác phí, hội nghị phí cho cán bộ xã phải đảm bảo những
yêu cầu và phương châm sau đây:
Yêu cầu: Giúp đỡ cán bộ
xã, chủ yếu là một số cán bộ chủ chốt, giải quyết một phần khó khăn trong sinh
hoạt, để đảm bảo công tác ở xã tiến hành tốt.
Phương châm.
– Phải căn cứ vào điều kiện công
tác của cán bộ xã, căn cứ vào đặc điểm tình hình xã của ta hiện nay, căn cứ vào
khả năng tài chính của Nhà nước và dựa vào chế độ hiện hành mà cải tiến việc trợ
cấp thù lao, công tác phí, hội nghị phí một cách thích hợp.
– Đi đôi với việc trợ cấp thù
lao, công tác phí, hội nghị phí, cần cải tiến tổ chức và lề lối làm việc ở xã,
cũng như tổ chức và lề lối làm việc của các cấp trên đối với xã.
– Trong khi thi hành việc trợ cấp
thù lao, công tác phí, hội nghị phí, các cấp cần coi trọng việc lãnh đạo và
giáo dục tư tưởng cho cán bộ xã và nhân dân.
III – NHỮNG
QUY ĐỊNH CỤ THỂ
A. – Trợ cấp
thù lao.
a) Trợ cấp thù lao cho cán bộ
chính quyền và đoàn thể ở xã do ngân sách tỉnh đài thọ.
1) Số suất trợ cấp:
Mỗi xã miền đồng bằng, trung du
đươc cấp nhiều nhất là 8 suất mỗi tháng, trong đó có từ 3 đến 4 suất để trợ cấp
cho cán bộ làm nhiệm vụ thường trực, phải để nhiều thì giờ làm công tác, số còn
lại là dự trữ.
Mỗi xã miền núi rẻo thấp được cấp
nhiều nhất là 7 suất, trong đó có từ 3 đến 4 suất để trợ cấp cho cán bộ làm nhiệm
vụ thường trực, phải để nhiều thì giờ làm công tác, số suất còn lại là dự trữ.
Mỗi xã miền nút rẻo cao được cấp
nhiều nhất là 6 suất, trong đó có 3 suất để trợ cấp cho cán bộ làm nhiệm vụ thường
trực, phải để nhiều thì giờ làm công tác, số suất còn lại là dự trữ.
2) Mức trợ cấp:
Các xã miền đồng bằng và trung
du được cấp mỗi suất là một vạn đồng (10.000 đồng) một tháng.
Các xã miền núi rẻo thấp được cấp
mỗi suất là một vạn hai nghìn đồng (12.000 đồng) một tháng.
Các xã miền nút rẻo cao được cấp
mỗi suất là một vạn bốn nghìn đồng (14.000 đồng) một tháng.
3) Cách sử dụng:
Số cán bộ làm nhiệm vụ thường thực
phải để nhiều thì giờ làm công tác như: Chủ tịch Ủy ban Hành chính, Bí thư chi
bộ, Thư ký văn phòng được trợ cấp cả suất.
Số suất dự trữ nhằm để cấp cho
những cán bộ phải để nhiều thì giờ làm những công tác bất thường trong
tháng, ảnh hưởng nhiều đến thì giờ sản xuất.
Số suất dự trữ cũng giao về xã
chứ không để ở huyện, châu hay tỉnh. Việc sử dụng sẽ căn cứ vào tình hình và
yêu cầu công tác của cán bộ, có thể cấp cả suất cho một người có thể chỉ cấp một
phần.
Theo đề nghị của Ủy ban Hành
chính huyện, châu, căn cứ vào hoàn cảnh khác nhau của từng loại xã trong địa
phương, Ủy ban Hành chính khu tự trị, thành phố, tỉnh có trách nhiệm quy định cụ
thể số suất trợ cấp cho cán bộ làm nhiệm vụ thường trực và số suất dự trữ cần
thiết cho từng xã.
Việc xét trợ cấp số suất cho từng
cán bộ xã phải làm nhiệm vụ thường trực và văn phòng là do Ủy ban Hành chính
huyện, châu quyết định theo đề nghị của xã.
Dưới sự hướng dẫn của Ủy ban Hành
chính huyện, châu, Ủy ban Hành chính xã căn cứ vào điều kiện công tác mất nhiều
thì giờ sản xuất mà cùng với cán bộ xã thảo luận và quyết định. Căn cứ vào đó, Ủy
ban Hành chính xã sử dụng số suất dự trữ để trợ cấp.
– Thù lao sẽ cấp bằng tiền vào
cuối tháng.
b) Việc cấp
thù lao cho trưởng trạm bưu chính xã do ngành Bưu điện quy định. Ngoài ra,
các cán bộ, nhân viên chuyên môn thuộc ngành sự nghiệp và xí nghiệp hoạt động ở
xã (như giáo viên dân lập, y tá, nữ hộ sinh, nhân viên thủy lợi, thủ ngư, v.v…)
trong khi phục vụ nhân dân được hưởng thù lao theo mức quy định của các ngành sở
quan và do nhân dân đài thọ.
c) Dân quan xã trong khi làm nhiệm
vụ cũng được trợ cấp thù lao như đã quy định trong nghị định số 350-TTg ngày 9
tháng 7 năm 1958.
B.– Về công
tác phí, hội nghị phí.
Các cán bộ xã (kể cả cán bộ
chính quyền và đoàn thể) đến huyện, châu, tỉnh công tác, hội họp, học tập, đều
được cấp các khoản chi sau đây:
1) Được phụ cấp công tác phí
theo đường đi, nếu phải đi nửa ngày đường thì cấp 400 đồng, nếu phải đi cả ngày
đường thì được cấp 800 đồng.
2) Tiền chi phí về tầu, xe, theo
thực tế phải chi.
3) Trường hợp cán bộ xã đến cơ
quan huyện, châu, tỉnh công tác hay dự hội nghị, nếu phải ăn thì được cấp theo
mức ăn bình thường của cơ quan hay hội nghị (mức ăn bình thường ở cơ quan hiện
nay từ 500đ đến 600đ một ngày).
Ủy ban Hành chính huyện, châu, tỉnh
có trách nhiệm dự trù để có thể thanh toán ngay cho cán bộ xã khi tới huyện,
châu, tỉnh công tác hay dự hội nghị.
C.– Về thù
lao công tác phí, hội nghị phí cho các cán bộ đoàn thể xã.
Để việc quản lý tài chính được dễ
dàng, từ nay việc cấp thù lao, công tác phí, hội nghị phí cho các cán bộ đoàn
thể xã do các đoàn thể huyện, châu, tỉnh dự trù và thống nhất vào ngân sách dự
trù chi thu của Ủy ban Hành chính huyện, châu, tỉnh.
D.– Phương
pháp tiến hành.
1) Các cấp cần phổ biến kỹ cho
cán bộ từ trên xuống dưới, nhất là cán bộ xã hiểu rõ ý nghĩa, mục đích của việc
trợ cấp thù lao, công tác phí, hội nghị phí để cán bộ thấy rõ chủ trương của Đảng
và Chính phủ là hợp tình, hợp lý, làm cho cán bộ xã thấy được Đảng và Chính phủ
luôn luôn quan tâm đến để động viên và đề cao tinh thần phục vụ của cán bộ xã.
Mặt khác cần chú ý khắc phục những
nhận thức không đúng về trợ cấp thù lao, (coi thủ trợ cấp này như tiền lương,
hoặc coi như hoa thơm, mỗi người hưởng một ít), đi đôi với việc khắc phục tư tưởng
đòi hỏi đãi ngộ cao và tư tưởng suy bì tị nạnh.
2) Các cấp huyện, châu, tỉnh cần
hướng dẫn chấn chỉnh các tổ chức ở xã. Chú ý phân công, phân nhiệm cán bộ cho hợp
lý và cải tiến lề lối làm việc ở xã (bớt hội họp, giảm thường trực, chú trọng
sinh hoạt thường kỳ, bớt những cuộc họp bất thường…), làm cho đại bộ phận cán bộ
xã có nhiều thì giờ sản xuất và có điều kiện hoạt động sát ở xóm, bản, lợi cho
sản xuất, lợi cho công tác.
3) Song song với việc hướng dẫn
xã cải tiến lề lối làm việc các cấp trên cũng cần cải tiến lề lối làm việc của
mình, đối với các xã, tránh dồn việc về xã nhiều quá, không đòi hỏi cán bộ xã
phải làm việc cán bộ thoát ly, phải ý thức tôn trọng thì giờ sản xuất của cán bộ
xã và của nhân dân. Nên đặt thành nguyên tắc là tăng cường việc cấp trên xuống
trực tiếp làm việc với xã và hết sức hạn chế việc triệu tập xã lên làm việc với
cấp trên. Cấp huyện, châu cần giảm bớt những cuộc họp ở huyện, châu xét ra
không thật cần thiết, để tránh triệu tập cán bộ đến huyện, châu hội họp nhiều,
mất nhiều thì giờ sản xuất, và tốn kém cho công quỹ.
Thông tư này thay thế cho các
quy định về thù lao công tác phí, hội nghị phí trước dây. Các Ủy ban Hành chính
Khu tự trị, thành phố, tỉnh đặc biệt chú ý kiểm tra đôn đốc cấp dưới thi hành
đúng tinh thần thông tư này. Nên chỉ đạo riêng một vài nơi để lấy kinh nghiệm
chỉ đạo chung. Trong quá trình thực hiện, yêu cầu các Ủy ban Hành chính Khu tự
trị, thành phố, tỉnh báo cáo kết quả và kinh nghiệm về Thủ tướng phủ và Bộ Nội
vụ.
|
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|