Thông tư 404-TTg năm 1959 bổ sung trợ cấp thù lao cho cán bộ xã do Phủ Thủ Tướng ban hành.

Số hiệu 404-TTg
Ngày ban hành 11/11/1959
Ngày có hiệu lực 01/01/1960
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Phủ Thủ tướng
Người ký Nguyễn Khang
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

PHỦ THỦ TƯỚNG
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 404-TTg

Hà Nội, ngày 11 tháng 11 năm 1959 

 

THÔNG TƯ

BỔ SUNG VIỆC TRỢ CẤP THÙ LAO CHO CÁN BỘ XÃ

Trong thời gian vừa qua, các địa phương đã thi hành đúng Thông tư số 403-TTg ngày 14/8/1958 về việc trợ cấp thù lao và công tác phí, hội nghị phí cho cán bộ xã, nên đã giúp cho cán bộ xã giải quyết được một phần khó khăn trong sinh hoạt, để yên tâm, tích cực công tác.

Tuy vậy, đời sống của cán bộ xã hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Để giúp cán bộ xã, chủ yếu là số cán bộ chủ chốt, có thêm điều kiện hoạt động, giải quyết một phần khó khăn trong sinh hoạt, để bảo đảm công tác ở xã tiến hành tốt, Thủ tướng phủ bổ sung việc trợ cấp thù lao cho cán bộ xã như sau:

1. Mức trợ cấp thù lao:

Tuỳ theo các xã miền đồng bằng, trung du hay các xã miền núi rẻo thấp, rẻo cao mà định mức trợ cấp thù lao khác nhau cho mỗi loại xã:

- Các xã miền đồng bằng và trung du được cấp mỗi định suất là 14đ một tháng, nửa định suất là 7đ.

- Các xã miền núi rẻo thấp được cấp mỗi định suất là 15đ một tháng, nửa định suất là 7đ50.

- Các xã miền núi rẻo cao được cấp mỗi định suất là 16đ một tháng, nửa định suất là 8đ.

2. Số người được hưởng trợ cấp thù lao và số tiền trợ cấp thù lao ở mỗi xã:

 Tùy theo các xã lớn hay nhỏ thuộc miền đồng bằng, trung du hay miền núi mà định cho mỗi xã từ ba đến 4 người được trợ cấp cả định suất và từ 8 đến tối đa 10 người được trợ cấp nửa định suất.

Do đó, số tiền trợ cấp thù lao hàng tháng ở

- Xã miền đồng bằng và trung du là 126đ;

- Xã miền núi rẻo thấp là 120đ;

- Xã miền núi rẻo cao là 112đ;

3. Cách sử dụng.

- Đối tượng được xét hưởng trợ cấp thù lao ở xã bao gồm những người hiện giữ các chức vụ sau đây: Bí thư, Phó bí thư và các Chi ủy viên Chi bộ xã (hay Xã ủy mới), Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên Ủy ban Hành chính xã, các Trưởng Phó ngành, Trưởng Phó ban, các Ủy viên trong Ban Thường vụ các đoàn thể cấp xã, Thư ký văn phòng Ủy ban Hành chính xã.

- Số cán bộ chủ chốt làm nhiệm vụ thường trực phải để nhiều thời gian làm công tác như: Bí thư, Phó Bí thư chi bộ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch hay ủy viên thường trực Ủy ban Hành chính xã được trợ cấp cả định suất.

- Số cán bộ thỉnh thoảng phải làm việc cả ngày nhưng thường xuyên và chủ yếu làm việc nửa ngày và nửa ngày sản xuất được trợ cấp một nửa định suất.

- Những người được trợ cấp cả định suất hay một nửa định suất là những người thực tế phải để nhiều thời giờ làm công tác, ảnh hưởng đến việc sản xuất. Ở những xã có chế độ phân công luân phiên thì người thay thế được hưởng trợ cấp thù lao trong thời gian thay thế nhưng phải được Ủy ban Hành chính xã đồng ý.

- Mỗi người chỉ được hưởng trợ cấp thù lao theo một chức vụ. Trường hợp giữ nhiều chức vụ, thì được chọn hưởng mức trợ cấp thù lao nào cao nhất cấp cho các chức vụ ấy.

- Ủy ban Hành chính xã cần đảm bảo cấp cả định suất hay nửa định suất cho cán bộ được trợ cấp thù lao.

- Ủy ban Hành chính các huyện, châu, quận sẽ căn cứ vào các chức vụ do xã đề nghị và đã được chuẩn y mà cấp tiền cho xã vào cuối tháng để trợ cấp cho cán bộ xã.

- Ủy ban Hành chính các khu tự trị, thành phố, tỉnh cần hướng dẫn cho các huyện, châu, quận phân loại các xã miền đồng bằng và trung du, miền núi rẻo thấp, miền núi rẻo cao, đồng thời quy định số người được trợ cấp thù lao và số tiền thù lao ở mỗi loại xã. Ủy ban Hành chính các huyện, châu, quận căn cứ vào những quy định của Ủy ban Hành chính Khu tự trị, thành phố, tỉnh, sẽ chỉ đạo các Ủy ban Hành chính và Hội đồng nhân dân xã thảo luận cụ thể vấn đề này để đề nghị xét duyệt các chức vụ được hưởng trợ cấp thù lao ở xã. Ủy ban Hành chính các huyện, châu, quận sẽ xét duyệt các đề nghị cụ thể của xã.

4. Thời gian thi hành:

Việc trợ cấp thù lao này cho cán bộ xã bắt đầu được thi hành kể từ ngày 1/1/1960. Những điều quy định trước đây trái với Thông tư này đều bãi bỏ.

Việc trợ cấp thù lao cho cán bộ xã không phải là việc trả lương cho cán bộ xã. Nó nhằm giúp đỡ một số cán bộ xã vì bận công tác mất nhiều thời gian sản xuất, giải quyết một phần khó khăn trong sinh hoạt. Bản thân cán bộ xã phải cố gắng sắp xếp thời giờ tham gia sản xuất, tự giải quyết đời sống cho bản thân và gia đình mình. Các cấp cần phổ biến kỹ cho cán bộ xã hiểu rõ  ý nghĩa, mục đích của việc trợ cấp thù lao để cán bộ xã thấy rõ sự quan tâm của Đảng, Chính phủ đối với anh chị em, để động viên và đề cao tinh thần phục vụ của anh chị em. Mặt khác, cũng cần giáo dục cho nhân dân thấy rõ trách nhiệm của mình hơn nữa đối với việc chăm sóc, giúp đỡ cán bộ xã trong công tác và sinh hoạt.

Nhận được Thông tư này, các Ủy ban Hành chính Khu tự trị, thành phố, tỉnh cần có kế hoạch hướng dẫn cụ thể cho địa phương mình thi hành; nếu gặp khó khăn, trở ngại gì thì xin báo cáo về Thủ tướng Phủ và Bộ Nội vụ để giải quyết.

[...]