Thứ 7, Ngày 26/10/2024

Thông tư 59-TB-SL5 năm 1956 giải thích và hướng dẫn thi hành Điều lệ ưu đãi gia đình liệt sĩ do Bộ Thương binh ban hành

Số hiệu 59-TB-SL5
Ngày ban hành 17/10/1956
Ngày có hiệu lực 01/11/1956
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Thương binh
Người ký Vũ Đình Tụng
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

BỘ THƯƠNG BINH
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 59-TB-SL5

Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 1956 

 

THÔNG TƯ

GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ ƯU ĐÃI GIA ĐÌNH LIỆT SĨ

BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG BINH

 Kính gửi:

- Các Ủy ban Hành chính liên khu, thành phố
- Các Ủy ban Hành chính tỉnh
- Ủy ban Hành chính Vĩnh linh

 

Cho tới nay, các ngành đã có số quy định cụ thể về ưu đãi gia đình liệt sĩ. Nay Thủ tướng phủ quyết định tổng hợp và bổ sung thành điều lệ ưu đãi gia đình liệt sĩ và ban hành ở nghị định số 980-TTg ngày 27-7-1956, nhằm để :

1) Đề cao và tỏ lòng ghi nhớ công ơn liệt sĩ đối với Tổ quốc, với nhân dân.

2) Thiết thực đền đáp công ơn liệt sĩ, săn sóc ưu đãi gia đình liệt sĩ về mặt vật chất và tinh thần.

3) Động  viên gia đình liệt sĩ phấn khởi, khuyến khích quân nhân hăng hái phấn đấu thực hiện thống nhất đất nước nhà hòan thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.

I. GIẢI THÍCH VỀ TIÊU CHUẨN LIỆT SĨ VÀ GIA ĐÌNH LIỆT SĨ :

A. Về liệt sĩ :

Việc xác nhận liệt sĩ phải thi hành đúng theo bản định nghĩa liệt sĩ, Thủ tướng phủ đã quy định, Bộ giải thích thêm những điểm sau đây để các Ủy ban chú ý :

1) Những người đã hy sinh vẻ vang đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến, tính từ năm 1952 trở về sau là liệt sĩ, kể cả các cán bộ, đảng viên Việt nam Quốc dân đảng chân chính hy sinh trong phong trào Nguyễn Thái Học và các ngoại kiều không có quốc tịch Việt nam vì phấn đấu trong hàng ngũ cách mạng Việt nam mà hy sinh. Các liệt sĩ yêu nước hy sinh trước 1925 là những tiên liệt không quy định trong bản định nghĩa liệt sĩ đã ban hành.

2) Điểm căn bản để xác nhận liệt sĩ là trường hợp hy sinh. Nếu là hy sinh vẻ vang vì đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến thì là liệt sĩ. Nói hy sinh vẻ vang là hy sinh một cách dũng cảm vì sự nghiệp cách mạng của  dân tộc.

3) Các trường hợp chết sau đây coi là hy sinh : chết trận, chết vì địch giết trong khi đấu tranh hay đang làm công tác cách mạng, chết vì tai nạn trong khi làm công tác cách mạng.

Các trường hợp chết trận, chết vì địch giết trong khi đấu tranh hay đang làm công tác cách mạng đều đương nhiên là liệt sĩ. Trường hợp chết vì tai nạn trong khi công tác phải là do dũng cảm vượt khó khăn nguy hiểm, kiên quyết làm nhiệm vụ, phải được nhân dân, đồng đội, đồng sự hay đồng nghiệp nhận xét là xứng đáng,  Ủy ban Hành chính tỉnh hay cấp trung đòan trở lên đề nghị, mới coi là liệt sĩ.

Quân nhân, cán bộ, nhân viên bị địch giết chết (phục kích, ám sát, oanh tạcv.v…) trong khi làm công tác đều coi là liệt sĩ.

Trường hợp mất tích mất tin, nếu xác nhận là đã hy sinh ở một trong các trường hợp sau đây mới coi là liệt sĩ .

Chết bệnh thông thường không  phải là hy sinh, và nói chung không coi là liệt sĩ.

4) Cán bộ, nhân viên, quân nhân cách mạng bị địch bắt tra tấn, không khai báo, không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh, sau bị ốm chết phải là do bị tra tấn hay là do chế độ nhà tù hà khắc tàn bạo mà ốm chết trong nhà tù hay sau khi ra tù thì coi là liệt sĩ.

5) Cán bộ, nhân viên cách mạng nói trong bản định nghĩa liệt sĩ bao gồm cả cán bộ thôn xã và các nhân viên làm công tác bán thoát ly ở thôn xã như thông tin, giao thông, công an v.v…

6) Các công dân nói ở khoản 3 bản định nghĩa liệt sĩ gồm các đảng viên, đoàn viên, hội viên của đảng cách mạng và các đòan thể cứu quốc ở cơ sở và xã. Những người này nếu vì dũng cảm vượt khó khăn nguy hiểm, kiên quyết làm nhiệm vụ, kiên quyết đấu tranh hoặc vì cứu cán bộ, cứu tài sản quốc gia và bị địch giết thì đều là liệt sĩ. Nếu vì tai nạn mà chết, thì phải được nhân dân nhận xét là xứng đáng. Ủy ban Hành chính tỉnh trở lên đề nghị, mới được coi là liệt sĩ. Các đảng viên, đòan viên đòan thể quần chúng bị hy sinh vì tham gia đấu tranh trong phong trào Xô viết Nghệ tỉnh đều coi là liệt sĩ.

7) Thương binh, dân quân du kích, cảnh vệ, cán bộ, nhân viên thanh niên xung phong, công an vũ trang bị thương và thành thương tật phải là vì chiến đấu với địch, vì đấu tranh hay làm công tác cách mạng, sau vì vết thương tái phát mà chết, được đồng đội, đồng sự hay nhân dân nhận xét là xứng đáng, Ủy ban Hành chính tỉnh đề nghị được coi là liệt sĩ. Vẫn giữ được phẩm chất cách mạng, nghĩa là vẫn giữ được tinh thần đấu tranh và đạo đức cách mạng, không đứng về phía địch, không phạm sai lầm nghiêm trọng về sinh hoạt, tác phong nhưng không nên vì có nhưng khuyết điểm vụn vặt về sinh hoạt mà coi là không giữ được đạo đức cách mạng.

8) Nói chung, những người vì đánh địch hay đấu tranh với địch. Những quân nhân cán bộ, nhân viên cách mạng vì làm công tác cách mạng bị sát hại thì đương nhiên là liệt sĩ. Những trường hợp hy sinh khác phải là do dũng cảm vượt khó khăn nguy hiểm, kiên quyết làm nhiệm vụ được nhân dân, đồng đội hay đồng sự nhận xét là xứng đáng, Ủy ban Hành chính tỉnh hay cấp Trung đoàn đề nghị, mới được coi là liệt sĩ. Những đơn vị, cơ quan hay thôn xóm có người hy sinh trong những trường hợp khác đó, đơn vị, cơ quan hay Ủy ban Hành chính xã cần đề ra để chiến sĩ, cán bộ, nhân viên hay nhân dân ở đó nhận xét, nếu thấy là xứng đáng thì mới báo cáo Ủy ban Hành chính tỉnh hay cấp Trung đòan xét và đề nghị lên trên công nhận.

B. Về gia đình liệt sĩ :

1) Gia đình liệt sĩ gồm những thân nhân mà liệt sĩ có nhiệm vụ đền đáp công lao nuôi dưỡng hay liệt sĩ có nhiệm vụ nuôi nấng hay do liệt sĩ chết đi mà chịu thiệt thòi.

Liệt sĩ chết đi trước hết là thiệt thòi cho vợ hay chồng, con cái rồi đến cha mẹ, vì vậy, thứ tự trước sau đã quy định là xếp theo mức thiệt thòi mà những thân nhân  ấy phải chịu.

2) Những người khác có liệt sĩ mất đi mà không có người trông nom nuôi nấng như  : em dưới 16 tuổi (tính khi kê khai xác nhận liệt sĩ ), tức là chưa đến tuổi tự lập được, ông nội bà nội già yếu không nơi nương tựa, đều được tính là thân nhân liệt sĩ.

[...]