Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Thông tư 35-TTg năm 1963 về chính sách khuyến khích chăn nuôi gia súc do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 35-TTg
Ngày ban hành 06/05/1963
Ngày có hiệu lực 21/05/1963
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phạm Hùng
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 35-TTg

Hà Nội, ngày 06 tháng 05 năm 1963 

 

THÔNG TƯ

VỀ MỘT SỐ CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH CHĂN NUÔI GIA SÚC

 THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngành chăn nuôi ngày càng trở nên quan trọng. Chăn nuôi và trồng trọt là hai ngành sản xuất cơ bản của nông nghiệp. Trồng trọt là cơ sở để phát triển chăn nuôi, ngược lại chăn nuôi có phát triển thì mới có nhiều sức kéo và phân bón để tăng diện tích, tăng năng suất cây trồng và cải thiện điều kiện lao động của nông dân. Chăn nuôi là nguồn thu nhập quan trọng của nông dân, nguồn cung cấp thực phẩm chủ yếu cho nhân dân, một phần nguyên liệu cho nông nghiệp và vật tư cho xuất khẩu.

Chấp hành nghị quyết Đại hội lần thức III của Đảng, nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ V và chủ trương, chính sách của Chính phủ, nhiều địa phương, nhiều hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và xã viên đã có nhiều cố gắng phát triển chăn nuôi. Năm 1962 tình hình chăn nuôi bắt đầu chuyển biến tốt. Đàn gia súc có tăng hơn trước (năm 1962 so với năm 1961; trâu tăng 2,1% ngựa tăng 8,5%, lợn tăng 13,3% , dê tăng 2,1%, gia cầm tăng 2,3%). Nhưng nói chung chăn nuôi phát triển chậm chưa đều và có mặt còn sút kém. Tỷ trọng của ngành chăn nuôi gia súc còn thấp. Sức tái sản xuất của đàn gia súc quá yếu. Đàn trâu, ngựa, lợn tuy có tăng, nhưng tốc độ tăng chậm và không đạt kế hoạch Nhà nước. Riêng đàn bò thì trong những năm gần đây mỗi năm một giảm sút (riêng 1962 so 1961 có tăng một ít). Chất lượng trâu, bò, lợn chưa tốt, mức sinh đẻ và tỷ lệ đẻ ra nuôi được thấp, giống ít và xấu, chăm sóc có nhiều thiếu sót…Sở dĩ có tình hình trên là vì:

- Chúng ta chưa nhận rõ vị trí của ngành chăn nuôi trong nông nghiệp và trong nền kinh tế quốc dân, nhất là chưa hiểu rõ mối quan hệ khăng khít giữa trồng trọt và chăn nuôi;

- Việc tổ chức và quản lý chăn nuôi của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp còn nhiều lúng túng;

- Biện pháp và kỹ thuật chăn nuôi chưa tốt: cơ sở thức ăn thiếu và bấp bênh, cơ sở vật chất và kỹ thuật còn ít và kém, công tác giống còn chung chung, việc phòng chống dịch bệnh cho gia súc có nhiều thiếu sót, việc chỉ đạo kỹ thuật chăn nuôi của các cơ quan chuyên môn còn kém;

- Nhiều địa phương chưa chấp hành tốt và đúng những chính sách chăn nuôi đã ban hành. Mặt khác, việc bổ sung những biện pháp và chính sách mới cho thích hợp với tình hình chăn nuôi sau khi căn bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp cũng chậm.

Trong quan hệ giữa các ngành nông nghiệp, vấn đề nổi bật là trồng trọt và chăn nuôi phát triển không cân đối.

Để đáp ứng yêu cầu ngày càng nhiều và tăng nhanh về sức kéo và phân bón cho trồng trọt, thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp, vật tư cho xuất khẩu, phương hướng chung phát triển chăn nuôi trong thời gian trước mắt là: trên cơ sở tạo nguồn thức ăn vững chắc cho gia súc và tăng cường chỉ đạo về tổ chức và kỹ thuật, phải đẩy mạnh chăn nuôi sinh sản, phát triển chăn nuôi tập thể, đồng thời hết sức khuyến khích phát triển chăn nuôi tập thể, đồng thời hết sức khuyến khích phát triển chăn nuôi trong các gia đình xã viên và nông dân cá thể và vận động toàn dân tham gia phát triển chăn nuôi.

Phải đặc biệt chú ý tăng nhanh số trâu, bò đẻ và lợn nái.

Đi đôi với việc phát triển nuôi trâu, bò của hợp tác xã là chủ yếu, Nhà nước cần tổ chức một số nông trường và trại chăn nuôi để cung cấp sức kéo, sữa.

Ra sức khuyến khích gia đình xã viên nuôi lợn, đồng thời phát triển rộng rãi vững chắc nuôi lợn tập thể quy mô nhỏ trong các đội sản xuất, các hợp tác xã và đẩy mạnh nuôi lợn ở các nông trường quốc doanh.

Phát triển rộng rãi nuôi gà, vịt, ngan, ngổng, thỏ, ong; nuôi thêm nhiều dê ở vùng đảo và miền núi, đẩy mạnh hơn nữa việc nuôi cá…

Riêng đối với miền núi, cần ra sức khôi phục và phát triển đàn gia súc; đẩy mạnh phát triển trâu bò ngựa, lấy chăn nuôi sinh sản làm trọng tâm. Đẩy mạnh chăn nuôi lợn; phát triển gà, vịt, ngan, ngỗng; tùy điều kiện phát triển nuôi ong, dê, cừu, thỏ, hươu, nai.

Để khuyến khích hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và nhân dân tích cực phát triển chăn nuôi gia súc theo phương hướng nói trên, Thủ tướng Chính phủ quy định thêm một số chính sách như sau:

I. VẤN ĐỀ CÔNG HỮU HÓA TRÂU, BÒ, NGỰA CỦA HỢP TÁC XÃ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP.

Việc công hữu hóa trâu, bò, ngựa của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp đã được quy định trong điều 19 chương 3 của bản điều lệ mẫu hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ban hành năm 1959, nhưng nhiều nơi thi hành chưa đúng. Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể thêm:

1. Từ nay trở đi, khi còn ở bậc thấp, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp không nên công hữu hóa trâu bò (kể cả trâu bò cày, trâu bò sinh sản) của xã viên. Những hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp nào trước đây đã công hữu trâu bò rồi thì phải đảm bảo tổ chức chăn nuôi cho tốt.

2. Khi hợp tác xã sản xuất nông nghiệp lên bậc cao, nếu xã viên tự nguyện thì hợp tác xã sản xuất nông nghiệp công hữu hóa trâu bò nhưng phải tiến hành thận trọng, từng bước, công hữu trâu bò cày kéo trước, trâu bò sinh sản sau, nơi nào trâu bò sinh sản ít thì không nên công hữu hóa.

3. Ở miền núi và trung du có điều kiện giống miền núi, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp chỉ nên công hữu hóa một số trâu bò đủ để cày kéo, còn thì để cho xã viên chăn nuôi riêng mỗi hộ khoảng 5,7 con (nơi chăn dắt dể có thể đẻ nhiều hơn). Ở miền rẻo cao, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp không nên công hưu trâu bò của xã viên.

Những hợp tác xã sản xuất nông nghiệp nào (kể cả hợp tác xã bậc thấp và bậc cao) trước đây đã công hữu hóa cả trâu bò cày kéo và trâu bò sinh sản rồi, nhưng nếu thừa sức kéo, việc tổ chức chăn nuôi chưa tốt, xã viên lại yêu cầu nuôi riêng, thì nên giao bớt trâu bò sinh sản lại cho xã viên (tùy theo số trâu bò của mỗi hộ góp vào hợp tác xã ít hoặc nhiều mà giao lại cho mỗi hộ từ một đến ba con). Những hộ nào mà số trâu bò góp vào hợp tác xã chỉ bằng cổ phần công hữu thì không giao lại mà hợp tác xã nên để cho họ chăn dắt một hai con trâu bò cái và có thể để cho họ hưởng hoàn toàn những bê nghé đẻ lứa đầu để làm vốn chăn nuôi riêng. Đối với trâu, bò cày kéo, nếu để chăn nuôi tập trung không tốt, thì nên giao cho xã viên chăn dắt, Ủy ban hành chính huyện chịu trách nhiệm xét duyệt việc giao lại trâu bò cày kéo nếu có.

4. Khi công hữu hóa, hợp tác xã phải mua trâu bò của xã viên theo giá trung bình ở địa phương. Những trâu bò có chửa phải định giá mua cao hơn trâu bò không có chửa. Những trâu bò có bê nghé kèm theo phải định giá mua bê nghé riêng,

5. Tiền mua trâu bò công hữu, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp phải trả dần cho xã viên trong thời gian từ ba đến năm năm như điều lệ mẫu đã quy định, không được dây dưa. không được gán cho người này lấy của người khác…Ở miền núi, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp nên trả tiền mua trâu bò cho xã viên sớm hơn thời gian nói trên một ít. Số tiền còn thiết chưa trả đúng thời hạn giao ước, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp phải trả lại cho xã viên theo mức lãi của tiền gửi vào hợp tác xã vay mượn.

Tiền mua bê nghé kèm theo trâu bò, hợp tác xã nông nghiệp phải trả đủ ngay cho xã viên khi công hữu hóa.

Ngoài ra hợp tác xã sản xuất nông nghiệp không nên công hữu hóa ngựa, mà nên để cho xã viên chăn nuôi riêng.

II. VỀ VẤN ĐỀ CHĂN NUÔI RIÊNG TRÂU, BÒ CỦA XÃ VIÊN

[...]