Thông tư 20-LĐ/TT năm 1959 bổ sung và sửa đổi chế độ học nghề theo lối kèm cặp do Bộ Lao động ban hành

Số hiệu 20-LĐ/TT
Ngày ban hành 03/11/1959
Ngày có hiệu lực 03/11/1959
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Lao động
Người ký Nguyễn Văn Tạo
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương,Giáo dục

BỘ LAO ĐỘNG
********

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 20-LĐ/TT

Hà Nội, ngày 03 tháng 11 năm 1959

 

THÔNG TƯ

CỦA BỘ LAO ĐỘNG SỐ 20-LĐ/TT NGÀY 3 THÁNG 11 NĂM 1959 BỔ SUNG VÀ SỬA ĐỔI MỘT SỐ ĐIỂM VỀ CHẾ ĐỘ HỌC NGHỀ THEO LỐI KÈM CẶP

BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG

Kính gửi:
Đồng kính gửi:

Các Bộ
Các cơ quan, đoàn thể Trung ương
Các Uỷ ban hành chính Tỉnh, Thành phố Hà Nội, Hải Phòng,
các Khu Tự trị, Khi Hồng quảng và khu vực Vĩnh Linh.
Các ty, Sở, Phòng Lao động
Thủ tướng Phủ
Tổng liên đoàn L.Đ.V.N.

Sau một thời gian thi hành Thông tư số 29/LĐ-TT ngày 20-11-1958 của Bộ Lao động, quy định tạm thời về chế độ học nghề, theo đề nghị của các ngành và địa phương, Bộ Lao động ra Thông tư này để bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể về "chế độ học nghề theo lối kèm cặp" ở các xí nghiệp, công trường như sau:

I. TIÊU CHUẨN NGƯỜI HỌC NGHỀ THEO LỐI KÈM CẶP

Tuổi:

- Đối với người ngoài biên chế, nói chung từ 17 tuổi đến 25 tuổi, những nghề ít nặng nhọc trong công nghệ nhẹ có thể chọn người 16 tuổi. Trường hợp đặc biệt cần tuyển nhận người trên hoặc dưới tuổi quy định trên đây sẽ do Bộ sở quan quyết định, nhưng cần rất hạn chế.

- Đối với người trong biên chế thì không hạn tuổi, nhưng cần đảm bảo các điều kiện cần thiết về sức khoẻ, về trình độ văn hóa theo yêu cầu của từng nghề để có thể theo học có kết quả tốt.

Trình độ văn hoá:

- Nói chung, phải có trình độ tương đương lớp 4 phổ thông trở lên.

- Đối với chị em phụ nữ có thể lấy người đã có trình độ lớp 3 phổ thông.

- Những người thuộc dân tộc miền núi, nếu chưa đủ trình độ văn hóa để theo học mà xét thấy có thể bổ túc văn hóa thêm một thời gian từ 3 đến 6 tháng sẽ đảm bảo được trình độ văn hóa tối thiểu cần thiết đã nói trên, thì Bộ sở quan quyết định giao cho cơ quan, xí nghiệp bổ túc văn hóa trước khi vào học nghề. Trong thời gian bổ túc văn hóa này cũng được hưởng sinh hoạt phí như khi học nghề.

- Trong việc tuyển chọn người học nghề cần ưu tiên xét tuyển những người có thành tích trong lao động sản xuất và những người đã tham gia lao động trên công trường xí nghiệp.

- Các điều kiện khác như các điều kiện về chính trị, về sức khoẻ v.v... vẫn theo như quy định trong Thông tư 29/LĐ-TT ngày 20/11/1958.

II. THỜI HẠN HỌC

Để bảo đảm chất lượng của công dân, người học nghề phải được đào tạo một cách toàn diện để sau thời gian học tập, người học nghề không những có một trình độ nghề nghiệp nhất định cả hai mặt lý thuyết và thực hành mà còn có trình độ chính trị, tư tưởng và đạo đức cần thiết, để có thể đáp ứng được với yêu cầu của sản xuất trong xí nghiệp, công trường.

Về mặt kỹ thuật cần dạy người học nghề nắm vững được những điều cơ bản của nghề nghiệp như: hiểu rõ các nguyên vật liệu, dụng cụ căn bản để lao động; thành thuộc động tác trong nghề; nắm vững phương pháp sản xuất, quy trình sử dụng máy móc, đạt mức năng suất bình thường của người thợ, hiểu rõ và thực hành đúng các quy tắc về an toàn lao động và vệ sinh công nghiệp; phải bảo đảm có trình độ hiểu biết về lý thuyết cơ bản nhất định v.v...

Đối với các loại thợ trong công nghệ nhẹ và các loại thợ trong ngành xây dựng thì cho học hai, ba việc trong nghề có quan hệ với nhau, để khi cần thiết có thể sử dụng được ngay.

Ví dụ: Học nghề diêm thì không những cần biết kỹ thuật về làm nan hoặc dán nhãn mà còn cần biết qua các phần việc khác như xấy thuốc, bỏ bao v.v... học nghề nề không chỉ học để biết xây tường mà còn phải biết các quy cách về bắt giáo,kỹ thuật pha trộn vôi vữa, trát tường, đào móng v.v... vì các bộ phận công tác này đều có quan hệ với nhau, người công nhân có trình độ nghề nghiệp cần thiết và toàn diện thì rất có lợi cho việc cải tiến kỹ thuật và tổ chức sản xuất của xí nghiệp.

Cần hết sức tránh việc đào tạo công nhân chỉ biết có một phần việc giản đơn rồi sử dụng ngay như một số xí nghiệp đã làm. Khi cần điều động qua các bộ phận công tác khác thì bỡ ngỡ, ảnh hưởng đến sản xuất của xí nghiệp và còn khó khăn trong việc thực hiện các chế độ tiền lương, tiền thưởng cho những công nhân này.

Trên quan điểm đó, những loại thợ yêu cầu về kỹ thuật phức tạp như cơ khí, điện v.v... thời gian học tập cả về lý thuyết và thực hành có thể định khoảng từ 1 năm rưỡi trở lên, còn các loại thợ trong công nghệ nhẹ và một số loại thợ kỹ thuật giản đơn trong ngành xây dựng v.v... thời gian học tập quy định không nên dưới 1 năm.

Trong thời gian đang học, do yêu cầu sản xuất điều động sang công tác ở đơn vị khác thì đơn vị mới phải tổ chức cho người học nghề tiếp tục học để hoàn thành chương trình đào tạo.

Sau thời gian học tập có thể xét tuyển vào biên chế chính thức hoặc gia hạn thêm thời gian học tập để bồi dưỡng thêm.

III. SINH HOẠT PHÍ

Xét tình hình sinh hoạt của những người học nghề, nay quy định lại chế độ sinh hoạt cho người học nghề theo lối kèm cặp nhằm thể hiện rõ rệt hơn sự khuyến khích và chiếu cố những người học các ngành nghề nặng nhọc, kỹ thuật phức tạp, những nghề cần thu hút nhiều người vào học, đồng thời đảm bảo quan hệ tốt giữa người học nghề và thợ đã có nghề, đảm bảo quan hệ tốt giữa người trong biên chế và những người ngoài biên chế đã tham gia lao động trên các công trường, xí nghiệp với những người mới tham gia lao động hay thanh niên mới vào học nghề. Đối với những vùng miền núi xa xôi, hẻo lánh có nhiều khó khăn, quy định sinh hoạt phí lần này cũng có chiếu cố hơn.

a. Người ngoài biên chế vào học nghề:

Mức sinh hoạt phí trên đây quy định cho một số nghề chung, đối với một số nghề nào xét điều kiện lao động nặng nhọc cần tăng thêm sinh hoạt phí thì Bộ sở quan sẽ trao đổi với Bộ Lao động để quyết định cụ thể riêng cho từng đợt tuyển sinh.

[...]