Thông tư 19-BT-1979 điều chỉnh địa giới các huyện, xã và các đơn vị tương đương thuộc các Tỉnh và Thành phố trực thuộc Trung ương do Phủ Thủ tướng ban hành

Số hiệu 19-BT
Ngày ban hành 31/01/1979
Ngày có hiệu lực 15/02/1979
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Phủ Thủ tướng
Người ký Vũ Tuân
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

PHỦ THỦ TƯỚNG
******

Số: 19-BT

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

***********

Hà Nội, ngày 31 tháng 01 năm 1979

 

THÔNG TƯ

VỀ VIỆC ĐIỀU CHỈNH ĐỊA GIỚI CÁC HUYỆN, XÃ VÀ CÁC ĐƠN VỊ TƯƠNG ĐƯƠNG THUỘC CÁC TỈNH VÀ THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

Hiện nay, tại một số tỉnh và thành phố ở miền Nam có tình trạng địa giới hành chính của các huyện và xã được phân bố không hợp lý. Có những huyện và xã quá lớn…, một số huyện và xã lại quá nhỏ…, hoặc ở một số vùng kinh tế mới cần thành lập các đơn vị hành chính để thành lập các đơn vị hành chính để góp phần ổn định công tác quản lý của Nhà nước.

Tình trạng kể trên làm cho công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất, phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của các địa phương không được sát và kịp thời. Chính quyền địa phương, nhất là chính quyền cơ sở chưa được kiện toàn, nên chưa làm tốt chức năng lãnh đạo và tổ chức nhân dân giữ vững chuyên chính vô sản, bảo đảm an ninh và trật tự xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, tổ chức đời sống, giáo dục và động viên nhân dân thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước.

Để thực hiện Nghị quyết số 10-NQ ngày 27-07-1978 của Ban chấp hành trung ương Đảng về việc kiện toàn tổ chức, cải tiến chế độ làm việc, Phủ thủ tướng hướng dẫn một số điểm cần thiết về việc điều chỉnh địa giới như sau.

I. CÁC NGUYÊN TẮC, TIÊU CHUẨN VỀ CHIA LẠI ĐỊA GIỚI HUYỆN, XÃ

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa và củng cố quốc phòng của địa phương, vận dụng các nguyên tắc dưới đây để nghiên cứu và đề nghị Hội đồng Chính phủ xét duyệt việc chia lại địa giới các đơn vị hành chính trong tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

A. Nguyên tắc điều chỉnh địa giới huyện, xã và các đơn vị tương đương.

1. Về chính trị: bảo đảm sự đoàn kết và tôn trọng truyền thống của nhân dân các dân tộc, bảo đảm sự chỉ đạo của cơ quan chính quyền được sát dân, sát cơ sở, nhạy bén, kịp thời và thuận tiện cho việc xây dựng lực lượng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.

2. Về kinh tế: bảo đảm sự phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, phát triển nông nghiệp toàn diện và xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nong (lâm, ngư), công nghiệp.

3. Về văn hóa, xã hội: bảo đảm điều kiện thuận lợi để phát triển văn hóa xã hội chủ nghĩa, phát triển phúc lợi tập thể và tổ chức đời sống của nhân dân một cách văn minh.

B. Tiêu chuẩn

Trong điều kiện hiện nay việc chia lại huyện, xã và các đơn vị tương đương phải nắm vững tiêu chuẩn về diện tích số dân. Nói chung, diện tích tự nhiên và số dân nên bố trí vừa phải cho thích hợp với cơ sở vật chất, kỹ thuật và trình độ quản lý của cán bộ, hết sức tránh lập các huyện quá lớn, nhiều đầu mối vượt quá khả năng chỉ đạo và quản lý của cán bộ trong điều kiện phương tiện và cơ sở vật chất còn hạn chế. Khi cần sáp nhập huyện, xã thì phải nhập cả đơn vị, không xé lẻ các xã, thôn, xóm ấp.

Cụ thể như sau:

1. Huyện:

Huyện ở đồng bằng có diện tích từ 10 000 đến 20 000 hécta canh tác, số dân từ 150 000 đến 200 000 người.

Huyện ở trung du có diện tích từ 20 000 đến 50 000 hécta đất đai kinh doanh, số dân từ 100 000 đến 150 000 người.

Huyện ở miền núi có diện tích từ 40 000 đến 50 000 hécta đất đai kinh doanh, số dân từ 50 000 đến 70 000 người.

Ở các tỉnh miền Nam, quy mô các huyện có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn về diện tích và số dân cho phù hợp với tình hình và đặc điểm của địa phương.

2. Xã:

Xã ở đồng bằng có diện tích khoảng từ 600 đến 1 000 hécta, số dân từ 6 000 đến 10 000 người.

Xã ở đồng bằng các tỉnh miền Nam có diện tích khoảng từ 1 000 đến 2 000 hécta, số dân từ 8 000 đến 12 000 người.

Xã ở trung du có diện tích khoảng từ 800 đến 1 200 hécta, số dân từ 4 000 đến 6 000 người.

Xã trung du ở miền Nam có diện tích từ 1 000 đến 2 000 hécta, số dân từ 3 000 đến 5 000 người.

Xã ở miền núi có diện tích từ 1 500 đến 2 000 hécta, số dân từ 1 000 đến 2 000 người.

Xã miền núi thuộc các tỉnh miền Nam có diện tích từ 1 000 đến 2 000 hécta, số dân từ 1 000 đến 2 000 người.

Xã của đồng bào đánh cá, làm muối thì lấy tiêu chuẩn số dân là chính từ dưới 1 000 đến 2 000 người, diện tích có khoảng từ 200 đến 300 hécta đất tự nhiên.

Xã trên đảo, diện tích và số dân có thể xê dịch so với quy mô các xã kể trên cho phù hợp với tình hình địa phương.

[...]