Thông tư 15-LĐ-TT năm 1962 giải thích và hướng dẫn Thông tư 60-TTg quy định chế độ học nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật do Bộ Lao động ban hành

Số hiệu 15-LĐ-TT
Ngày ban hành 15/08/1962
Ngày có hiệu lực 01/09/1962
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Lao động
Người ký Nguyễn Đăng
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương,Giáo dục

BỘ LAO ĐỘNG
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 15-LĐ-TT

Hà Nội, ngày 15 tháng 08 năm 1962 

 

THÔNG TƯ

GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH THÔNG TƯ SỐ 60-TTG NGÀY 01-6-1962 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ, QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ HỌC NGHỀ, ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT

 BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG

Kính gửi:
Đồng kính gửi:

- Các Bộ, các cơ quan trung ương,
- Các Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh,
- Các sở, ty, phòng lao động,
- Tổng công đoàn Việt Nam
- Đoàn thanh niên lao động Việt Nam

Ngày 01-6-1962, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 60-TTg, quy định chế độ học nghề.

Bộ Lao động ra thông tư này nhằm giải thích và hướng dẫn thêm một số điểm cụ thể để các Bộ, các ngành, các cấp thi hành được thống nhất.

I. TIÊU CHUẨN VÀ THỂ LỆ TUYỂN CHỌN.

1. Tuổi. Những công nhân viên chức đang làm việc trong cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường Nhà nước (dưới đây gọi tắt là cơ quan, xí nghiệp) được giới thiệu đi học nghề (bao gồm cả những người đã được tuyển dụng chính thức và những người chưa được tuyển dụng chính thức nhưng làm việc thường xuyên và bộ đội tình nguyện chuyển ngành), nếu học những nghề nặng nhọc, tuổi tối đa không quá 30 tuổi. Những nghề nặng nhọc là những nghề đã được quy định ở tiết A và B mục II trong thông tư Liên Bộ Nội vụ- Lao động – Y tế số 08 ra ngày 24-3-1962 “quy định những nghề được coi là đặc biệt nặng nhọc có hại đến sức khỏe”. Ngoài những nghề trên có những nghề khác cần phải xếp vào loại nghề nặng nhọc, các Bộ, các ngành sẽ bàn cụ thể với Bộ Lao động khi lập kế hoạch tuyển sinh.

2. Trình độ văn hoá. Trình độ văn hoá quy định trong Thông tư số 60-TTg là trình độ cần thiết nhằm phục vụ cho việc học tập kỹ thuật được tốt. Đối với những người đang làm việc thường xuyên ở các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước được giới thiệu đi học nghề mà chưa đạt được trình độ văn hoá đã quy định trong thông tư, thì các đơn vị sử dụng cần có kế hoạch bồi dưỡng để có đủ trình độ trước khi chuyển sang học nghề.

Đồng bào các dân tộc thiểu số được chiếu cố thấp hơn yêu cầu một lớp. Những nghề phải yêu cầu trình độ văn hóa cao hơn quy định trong thông tư, các cơ quan tuyển sinh cần nêu rõ yêu cầu, mục đích của ngành, nghề cần đào tạo và có sự thống nhất với cơ quan Lao động cùng cấp trước khi tuyển sinh, nhưng nguyên tắc không được cao hơn quá một lớp theo tiêu chuẩn quy định trong thông tư. Cụ thể: Trường chính quy, tối đa không quá lớp 6, trường lớp bên cạnh xí nghiệp hay kèm cặp trong sản xuất, tối đa không quá lớp 5.

Để đảm bảo trình độ văn hóa, những người xin học nghề phải có giấy chứng nhận học lực; giấy chứng nhận học lực phải kèm theo bản sao học bạ của các cơ quan giáo dục khu phố, huyện, châu hoặc các hiệu trưởng hay hiệu phó các trường phổ thông và bổ túc văn hóa cấp. Nếu không có bản sao lục học bạ kèm theo thì phải qua kỳ thi kiểm tra văn hóa để tuyển chọn.

3. Thể lệ tuyển chọn:

a) Các Bộ, các ngành trước khi mở trường, lớp phải lập kế hoạch tuyển sinh và trao đổi với Bộ Lao động (nếu trường, lớp do địa phương mở thì trao đổi với cơ quan Lao động địa phương) để thống nhất tiêu chuẩn và đối tượng tuyển sinh. Kế hoạch tuyển sinh phải gửi tới Bộ Lao động trước ngày tuyển sinh một tháng để tổng hợp và làm kế hoạch phân phối (theo Chỉ thị 149-TTg ngày 17-4-1961 của Thủ tướng Chính phủ).

Biểu mẫu lập kế hoạch tuyển sinh thi hành theo thông tư số 15 ngày 10-08-1961 của Bộ Lao động hướng dẫn thi hành chỉ thị số 440-TTg và chỉ thị số 140-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

b) Người xin học nghề phải làm giấy cam đoan. Nội dung giấy cam đoan theo mẫu thống nhất kèm theo thông tư này[1]. Những lời cam đoan phải tự tay người xin học nghề viết và có sự bảo đảm của gia đình, cụ thể là của cha mẹ hay người trực tiếp nuôi dưỡng ký nhận đảm bảo. Thời gian cam đoan phục vụ cho cơ quan, công trường Nhà nước sau khi tốt nghiệp ít nhất là 5 năm kể từ ngày tốt nghiệp,

c) Người xin học nghề phải tự túc tiền tàu, xe và ăn đường để đến địa điểm tuyển chọn (kiểm tra văn hoá, sức khỏe) và đến nơi học tập (trừ những người đang làm việc thường xuyên ở các cơ quan, xí nghiệp được giới thiệu, được giới thiệu đi học thì được hưởng theo chế độ công tác phí của Nhà nước, do cơ quan giới thiệu đi học đài thọ). Trường hợp người xin học nghề đã đến địa điểm tuyển chọn và tập trung học tập, nhưng nhà trường hoãn việc tuyển chọn, hoặc khai giảng, người xin học nghề phải trở về, thì cơ quan tuyển sinh phải đài thọ tiền tầu xe và tiền ăn đường cả lần đi và lần về, nếu phải chờ đợi thì cơ quan tuyển sinh phải đài thọ tiền ăn và nghỉ trọ trong những ngày phải chờ đợi.

Để đỡ tốn kém trong khi tuyển sinh, các cơ quan tuyển dụng nên dựa vào các Hội đồng tuyển sinh của các địa phương để thẩm tra lý lịch, khám sức khỏe và kiểm tra trình độ văn hoá tại chỗ. Các trạm tuyển sinh nên đặt ở những nơi thuận tiện giao thông và có nhiều người nộp đơn xin học, để tránh lãng phí thời gian, đỡ tốn kém cho người xin học nghề.

Những người xin học nghề là con em liệt sĩ, tử sĩ, đồng bào thuộc dân tộc thiểu số, học sinh và đồng bào miền Nam, nếu được chính quyền địa phương (xã, khu phố) chứng nhận và đề nghị trợ cấp, sẽ được cấp tiền tầu, xe và ăn đường từ nhà đến địa điểm tuyển chọn và tập trung học tập. Tiền này tính vào kinh phí đào tạo.

II. CHẾ ĐỘ HỌC TẬP

Thời gian đào tạo và tỷ lệ thời gian học giữa lý thuyết và học thực hành, thi hành theo những điều quy định của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước đã được Hội đồng Chính phủ thông qua, như sau:

Trường chính quy: thời gian đào tạo, hai năm (không tính thời gian tập sự), lý thuyết từ 25 đến 30% trong tổng số thời gian học tập.

Trường lớp bên cạnh xí nghiệp: Thời gian đào tạo 18 tháng. Lý thuyết từ 20 đến 25% trong tổng số thời gian học tập.

Trường lớp kèm cặp trong sản xuất: Thời gian đào tạo từ sáu tháng đến 16 tháng (riêng các lớp cơ điện, 18 tháng), lý thuyết từ 15 đến 20% trong tổng số thời gian học tập.

Thời gian trên quy định chung cho các hình thức sẽ đào tạo. Thời gian cụ thể cho từng loại ngành nghề sẽ căn cứ vào nội dung chương trình của Hội đồng thẩm duyệt đã thông qua. Những chương trình nội dung chưa được Hội đồng thẩm quyền thông qua, các Bộ, các ngành, các trường lớp, đào tạo công nhân phải gửi đến Bộ Lao động góp ý kiến để đảm bảo chất lượng đào tạo và giữ được quan hệ tốt giữa các ngàng nghề.

III. QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI HỌC NGHỀ

A. Sinh hoạt phí học nghề.

1. Điều kiện hưởng sinh hoạt phí 21đ 00 một tháng trong thời gian tập trung học lý thuyết như quy định trong Thông tư số 60-TTg, là thời gian tập trung học lý thuyết từ một tháng trở lên. Học xong lý thuyết, có kiểm tra sát hạch, chứng nhận tốt nghiệp phần lý thuyết xong mời xuống cơ sở học thực hành cho đến khi mãn khóa thi tốt nghiệp.

Trường hợp học lý thuyết xen kẽ với học thực hành, hoặc học tập trung dưới một tháng, thì không áp dụng quy định này, mà áp dụng theo chế độ kèm cặp trong sản xuất như quy định ở tiết B mục III trong Thông tư số 60-TTg.

[...]