Thông tư 12-LĐ-TT-1964 ban hành quy phạm kỹ thuật an toàn khai thác đá do Bộ lao động ban hành
Số hiệu | 12-LĐ-TT |
Ngày ban hành | 14/07/1964 |
Ngày có hiệu lực | 29/07/1964 |
Loại văn bản | Thông tư |
Cơ quan ban hành | Bộ Lao động |
Người ký | Bùi Quỳ |
Lĩnh vực | Lao động - Tiền lương,Tài nguyên - Môi trường |
BỘ
LAO ĐỘNG Số: 12-LĐ-TT |
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA ******* Hà Nội, ngày 14 tháng 07 năm 1964 |
THÔNG TƯ
BAN HÀNH QUY PHẠM KỸ THUẬT AN TOÀN KHAI THÁC ĐÁ
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính gửi: |
Các Bộ và các ngành quản lý sản
xuất, |
Do yêu cầu của các ngành kinh tế quốc dân, việc khai thác đá ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có một quy phạm kỹ thuật an toàn về khai thác đã áp dụng chung cho các ngành, các địa phương, nhằm ngăn ngừa tai nạn lao động và tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động.
Để đáp ứng yêu cầu đó, căn cứ vào Nghị định số 187-CP ngày 20-12-1963 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Lao động, và sau khi lấy ý kiến của các ngành quản lý sản xuất, Tổng Công đoàn Việt Nam, Ủy ban Khoa học Nhà nước và các ngành có liên quan, Bộ Lao động ban hành, kèm theo thông tư này, bản quy phạm kỹ thuật an toàn về khai thác đá để thay thế bản quy tắc kỹ thuật làm đá ban hành kèm theo Thông tư số 05-LĐ-TT ngày 13-02-1961 của Bộ Lao động.
Dưới đây, Bộ Lao động giới thiệu nội dung và hướng dẫn việc tổ chức thực hiện bản quy phạm.
Bản quy phạm gồm có sáu chương sắp xếp theo trình tự các công việc khai thác đá từ đục khoan, bắn mìn, bẩy đá cho đến đập đá vận chuyển, trong đó:
Chương I quy định những nguyên tắc chung như:
- Điều kiện bắt buộc khi mở xí nghiệp khai thác đá là phải làm đơn xin phép khai thác để chính quyền địa phương có thể cân nhắc trước việc nên hay không nên cho phép khai thác và nghiên cứu trước các điều kiện đảm bảo an toàn lao động của xí nghiệp trong trường hợp cho phép khai thác; đơn xin phép khai thác phải gửi cho cơ quan lao động địa phương nghiên cứu trước khi chuyển lên Ủy ban hành chính xét và cấp giấy phép;
- Trách nhiệm của Ban giám đốc hoặc Ban chỉ huy trong công tác bảo hộ lao động;
- Những yêu cầu đối với công nhân làm đá: sức khỏe, trình độ chuyên môn và kỹ thuật an toàn...
Chương II quy định những biện pháp an toàn khi làm việc trên núi, gồm những việc như cắt tầng, làm lối lên xuống, đục đá, khoan đá và cạy gỡ đá trên núi. Quy định tại điều 14 về cắt tầng là một việc cải tiến trong phương pháp khai thác đá, các xí nghiệp phải khắc phục mọi khó khăn để thực hiện quy định này, tránh lối gặp đâu khai thác đấy hoặc để công nhân tự ý moi đá rất nguy hiểm. Việc làm lối lên xuống núi cho công nhân quy định tại điểm 18 cũng là một vấn đề mới trong phương pháp khai thác, nhằm khắc phục lối leo dây rất nguy hiểm hiện nay, dễ gây ra tai nạn đứt dây leo hoặc buột tay ngã trong khi leo.
Chương III quy định về an toàn khi sử dụng thuốc nổ bắn đá. Nói chung khi sử dụng thuốc nổ đều phải triệt để thi hành bản quy phạm an toàn về bảo quản, vận chuyển và sử dụng vật liệu nổ đã ban hành. Trong chương này chỉ nêu lên những vấn đề cần đặc biệt chú ý khi sử dụng thuốc nổ bắn đá mà từ trước đến nay các công trường khai thác đá hay vi phạm, như điều 45 quy định việc bắn mìn có hộ chiếu và kiểm tra thực hiện đúng hộ chiếu, một biện pháp rất tốt để ngăn ngừa tai nạn lao động do sử dụng thuốc nổ tùy tiện gây nên như gặp đâu khoan đấy, không tính toán đến khoảng cách, đường cản, chỉ tiêu thuốc nổ, không dùng kín thật, cắt dây mìn quá ngắn, moi móc mìn câm, v.v...
Chương IV quy định về an toàn khi làm việc ở dưới chân núi, trong đó quy định những biện pháp an toàn khi đập đá hộc, đá dăm và bố trí nơi làm việc ở chân núi cho công nhân.
Chương V quy định về an toàn khi vận chuyển đá, trong đó gồm có biện pháp an toàn khi gánh đá, khi vận chuyển bằng xe cút kít, xe goòng, ô-tô là những phương tiện vận tải thông dụng ở các xí nghiệp khai thác đá.
Chương VI quy định phạm vi và trách nhiệm thi hành bản quy phạm. Bản quy phạm áp dụng cho tất cả các xí nghiệp khai thác đá thuộc tất cả các ngành do trung ương cũng như do địa phương quản lý. Đối với các hợp tác xã nông nghiệp có khai thác đá, Ủy ban hành chính địa phương sẽ căn cứ vào tinh thần bản quy phạm mà quy định những điều cần thiết và hướng dẫn thi hành cho thích hợp.
Để đảm bảo an toàn lao động, cơ quan, xí nghiệp cung cấp mìn cho các hợp tác xã khai thác đá để thu mua phải có trách nhiệm quản lý chặt chẽ việc sử dụng thuốc nổ đã cung cấp (cử cán bộ chuyên môn về thuốc nổ đến hợp tác xã trực tiếp hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi việc sử dụng hàng ngày để ngăn ngừa việc mìn có thể lọt ra ngoài để dùng vào những việc khác), và giúp hợp tác xã thành lập tổ bắn mìn chuyên môn, tránh tình trạng sử dụng người không thành thạo vào việc bắn mìn, dễ gây ra tai nạn lao động. Cấm giao khoán trắng thuốc nổ cho hợp tác xã để thu mua đá. Nếu hợp tác xã không tôn trọng những điều chỉ dẫn về kỹ thuật an toàn có thể dẫn đến tai nạn nghiêm trọng, cơ quan, xí nghiệp phải đình chỉ việc cung cấp thuốc nộ để ngăn ngừa tai nạn lao động.
Để bản quy phạm có tác dụng thiết thực và phục vụ kịp thời cho sản xuất, việc thi hành bản quy phạm cần tiến hành theo ba bước sau đây:
Bước 1: Tổ chức cho cán bộ, công nhân học tập kỹ bản quy phạm:
Trước khi phổ biến cho công nhân học tập, cán bộ phụ trách xí nghiệp và các cán bộ chỉ đạo sản xuất phải nghiên cứu nắm vững những điều quy định trong quy phạm, rồi tổ chức phổ biến cho toàn thể cán bộ, công nhân trong xí nghiệp. Sau đó, dựa vào quy phạm này để xây dựng quy trình hoặc trích từng phần việc riêng như đục đá, cạy gỡ, bắn mìn... để tổ chức cho công nhân bộ phận nào thì học kỹ phần việc đó, rồi tổ chức sát hạch phát giấy chứng nhận theo như điều 4 chương I đã quy định.
Trong khi học tập cần tổ chức cho từng bộ phận thảo luận liên hệ với thực tế nhằm nâng cao ý thức và trình độ hiểu biết về kỹ thuật an toàn cho công nhân, đồng thời qua đó phát hiện những thiếu sót trước đây để bàn biện pháp khắc phục. Việc này cần phải làm ngay.
Bước 2: Lập kế hoạch cụ thể khắc phục các thiếu sót:
Trong khi tổ chức cho cán bộ, công nhân học tập, thảo luận liên hệ thực tế, xí nghiệp cần tổ chức theo dõi, tập hợp những vấn đề thiếu sót ở các đội, tổ phát hiện và đối chiếu những quy định trong quy phạm với thực tế ở xí nghiệp để nghiên cứu lập kế hoạch khắc phục. Mục đích chính của công việc này là nhằm thi hành nghiêm chỉnh những điều quy định trong quy phạm nên kế hoạch cần phải cụ thể, chi tiết từng công việc, chỉ định người hoặc đơn vị có trách nhiệm thực hiện, thời gian hoàn thành, nguồn kinh phí (nếu cần)...
BỘ
LAO ĐỘNG Số: 12-LĐ-TT |
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA ******* Hà Nội, ngày 14 tháng 07 năm 1964 |
THÔNG TƯ
BAN HÀNH QUY PHẠM KỸ THUẬT AN TOÀN KHAI THÁC ĐÁ
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính gửi: |
Các Bộ và các ngành quản lý sản
xuất, |
Do yêu cầu của các ngành kinh tế quốc dân, việc khai thác đá ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có một quy phạm kỹ thuật an toàn về khai thác đã áp dụng chung cho các ngành, các địa phương, nhằm ngăn ngừa tai nạn lao động và tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động.
Để đáp ứng yêu cầu đó, căn cứ vào Nghị định số 187-CP ngày 20-12-1963 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Lao động, và sau khi lấy ý kiến của các ngành quản lý sản xuất, Tổng Công đoàn Việt Nam, Ủy ban Khoa học Nhà nước và các ngành có liên quan, Bộ Lao động ban hành, kèm theo thông tư này, bản quy phạm kỹ thuật an toàn về khai thác đá để thay thế bản quy tắc kỹ thuật làm đá ban hành kèm theo Thông tư số 05-LĐ-TT ngày 13-02-1961 của Bộ Lao động.
Dưới đây, Bộ Lao động giới thiệu nội dung và hướng dẫn việc tổ chức thực hiện bản quy phạm.
Bản quy phạm gồm có sáu chương sắp xếp theo trình tự các công việc khai thác đá từ đục khoan, bắn mìn, bẩy đá cho đến đập đá vận chuyển, trong đó:
Chương I quy định những nguyên tắc chung như:
- Điều kiện bắt buộc khi mở xí nghiệp khai thác đá là phải làm đơn xin phép khai thác để chính quyền địa phương có thể cân nhắc trước việc nên hay không nên cho phép khai thác và nghiên cứu trước các điều kiện đảm bảo an toàn lao động của xí nghiệp trong trường hợp cho phép khai thác; đơn xin phép khai thác phải gửi cho cơ quan lao động địa phương nghiên cứu trước khi chuyển lên Ủy ban hành chính xét và cấp giấy phép;
- Trách nhiệm của Ban giám đốc hoặc Ban chỉ huy trong công tác bảo hộ lao động;
- Những yêu cầu đối với công nhân làm đá: sức khỏe, trình độ chuyên môn và kỹ thuật an toàn...
Chương II quy định những biện pháp an toàn khi làm việc trên núi, gồm những việc như cắt tầng, làm lối lên xuống, đục đá, khoan đá và cạy gỡ đá trên núi. Quy định tại điều 14 về cắt tầng là một việc cải tiến trong phương pháp khai thác đá, các xí nghiệp phải khắc phục mọi khó khăn để thực hiện quy định này, tránh lối gặp đâu khai thác đấy hoặc để công nhân tự ý moi đá rất nguy hiểm. Việc làm lối lên xuống núi cho công nhân quy định tại điểm 18 cũng là một vấn đề mới trong phương pháp khai thác, nhằm khắc phục lối leo dây rất nguy hiểm hiện nay, dễ gây ra tai nạn đứt dây leo hoặc buột tay ngã trong khi leo.
Chương III quy định về an toàn khi sử dụng thuốc nổ bắn đá. Nói chung khi sử dụng thuốc nổ đều phải triệt để thi hành bản quy phạm an toàn về bảo quản, vận chuyển và sử dụng vật liệu nổ đã ban hành. Trong chương này chỉ nêu lên những vấn đề cần đặc biệt chú ý khi sử dụng thuốc nổ bắn đá mà từ trước đến nay các công trường khai thác đá hay vi phạm, như điều 45 quy định việc bắn mìn có hộ chiếu và kiểm tra thực hiện đúng hộ chiếu, một biện pháp rất tốt để ngăn ngừa tai nạn lao động do sử dụng thuốc nổ tùy tiện gây nên như gặp đâu khoan đấy, không tính toán đến khoảng cách, đường cản, chỉ tiêu thuốc nổ, không dùng kín thật, cắt dây mìn quá ngắn, moi móc mìn câm, v.v...
Chương IV quy định về an toàn khi làm việc ở dưới chân núi, trong đó quy định những biện pháp an toàn khi đập đá hộc, đá dăm và bố trí nơi làm việc ở chân núi cho công nhân.
Chương V quy định về an toàn khi vận chuyển đá, trong đó gồm có biện pháp an toàn khi gánh đá, khi vận chuyển bằng xe cút kít, xe goòng, ô-tô là những phương tiện vận tải thông dụng ở các xí nghiệp khai thác đá.
Chương VI quy định phạm vi và trách nhiệm thi hành bản quy phạm. Bản quy phạm áp dụng cho tất cả các xí nghiệp khai thác đá thuộc tất cả các ngành do trung ương cũng như do địa phương quản lý. Đối với các hợp tác xã nông nghiệp có khai thác đá, Ủy ban hành chính địa phương sẽ căn cứ vào tinh thần bản quy phạm mà quy định những điều cần thiết và hướng dẫn thi hành cho thích hợp.
Để đảm bảo an toàn lao động, cơ quan, xí nghiệp cung cấp mìn cho các hợp tác xã khai thác đá để thu mua phải có trách nhiệm quản lý chặt chẽ việc sử dụng thuốc nổ đã cung cấp (cử cán bộ chuyên môn về thuốc nổ đến hợp tác xã trực tiếp hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi việc sử dụng hàng ngày để ngăn ngừa việc mìn có thể lọt ra ngoài để dùng vào những việc khác), và giúp hợp tác xã thành lập tổ bắn mìn chuyên môn, tránh tình trạng sử dụng người không thành thạo vào việc bắn mìn, dễ gây ra tai nạn lao động. Cấm giao khoán trắng thuốc nổ cho hợp tác xã để thu mua đá. Nếu hợp tác xã không tôn trọng những điều chỉ dẫn về kỹ thuật an toàn có thể dẫn đến tai nạn nghiêm trọng, cơ quan, xí nghiệp phải đình chỉ việc cung cấp thuốc nộ để ngăn ngừa tai nạn lao động.
Để bản quy phạm có tác dụng thiết thực và phục vụ kịp thời cho sản xuất, việc thi hành bản quy phạm cần tiến hành theo ba bước sau đây:
Bước 1: Tổ chức cho cán bộ, công nhân học tập kỹ bản quy phạm:
Trước khi phổ biến cho công nhân học tập, cán bộ phụ trách xí nghiệp và các cán bộ chỉ đạo sản xuất phải nghiên cứu nắm vững những điều quy định trong quy phạm, rồi tổ chức phổ biến cho toàn thể cán bộ, công nhân trong xí nghiệp. Sau đó, dựa vào quy phạm này để xây dựng quy trình hoặc trích từng phần việc riêng như đục đá, cạy gỡ, bắn mìn... để tổ chức cho công nhân bộ phận nào thì học kỹ phần việc đó, rồi tổ chức sát hạch phát giấy chứng nhận theo như điều 4 chương I đã quy định.
Trong khi học tập cần tổ chức cho từng bộ phận thảo luận liên hệ với thực tế nhằm nâng cao ý thức và trình độ hiểu biết về kỹ thuật an toàn cho công nhân, đồng thời qua đó phát hiện những thiếu sót trước đây để bàn biện pháp khắc phục. Việc này cần phải làm ngay.
Bước 2: Lập kế hoạch cụ thể khắc phục các thiếu sót:
Trong khi tổ chức cho cán bộ, công nhân học tập, thảo luận liên hệ thực tế, xí nghiệp cần tổ chức theo dõi, tập hợp những vấn đề thiếu sót ở các đội, tổ phát hiện và đối chiếu những quy định trong quy phạm với thực tế ở xí nghiệp để nghiên cứu lập kế hoạch khắc phục. Mục đích chính của công việc này là nhằm thi hành nghiêm chỉnh những điều quy định trong quy phạm nên kế hoạch cần phải cụ thể, chi tiết từng công việc, chỉ định người hoặc đơn vị có trách nhiệm thực hiện, thời gian hoàn thành, nguồn kinh phí (nếu cần)...
Trọng tâm của kế hoạch cần hướng vào những việc sau đây:
a) Lập tài liệu kỹ thuật khai thác và bảo hộ lao động: Cụ thể là làm đơn xin phép khai thác đá. Trong đơn xin pháp phải ghi rõ:
- Tên cơ quan, đoàn thể xin khai thác đá.
- Các địa điểm khai thác,
- Mục đích khai thác,
- Sản lượng tối đa hàng tháng, hàng năm,
- Thời hạn khai thác,
- Số lượng công nhân, cán bộ kỹ thuật,
- Máy móc dùng để khai thác,
- Phương pháp khai thác, v.v...
Kèm theo đơn phải có một sơ đồ địa hình khu vực khai thác, có ghi khoảng cách từ nơi khai thác và kho mìn tới các công trình, nhà cửa và đường sá ở chung quanh, một bản kế hoạch bảo hộ lao động trong đó phải dựa vào tình hình thực tế mà đề ra những biện pháp đề phòng tai nạn lao động.
Đối với các xí nghiệp hiện đang khai thác, trước đây chưa có các tài liệu như trên, nay cũng phải lập để làm tài liệu kỹ thuật và gửi cho cơ quan lao động địa phương theo dõi.
b) Lập dự án thiết kế về cắt tầng, dựa vào tình hình thiết bị, nhân lực hiện có để chọn phương pháp cắt tầng cho thích hợp nhằm khai thác được lâu dài và đảm bảo an toàn lao động.
c) Đặt kế hoạch làm lối lên xuống núi theo như điều 18 đã quy định.
d) Đặt kế hoạch sắp xếp công nhân làm việc trong các máng, không để người làm trên, người làm dưới cùng một máng, thí dụ: khi khoan bắn, cạy gỡ ở máng A thì chỉ được đập đá, vận chuyển... ở dưới chân máng B, đến khi khoan bắn, cạy gỡ ở máng B thì bộ phận vận chuyển, đập đá lại sang làm việc ở máng A.
đ) Lập hộ chiếu bắn mìn để làm tài liệu kỹ thuật hướng dẫn và bắt buộc công nhân bắn mìn phải theo đồng thời giúp cho cán bộ phụ trách có thể theo dõi kiểm tra việc sử dụng thuốc nổ được chặt chẽ.
e) Khoảng cách giữa nhiều công trường khai thác ở gần nhau hoặc khoảng cách từ nơi khai thác tới các nhà cửa, công trình, phân xưởng, kho tàng... không bảo đảm an toàn thì phải có kế hoạch dời nơi khai thác hoặc nhà cửa, công trình... đi nơi khác.
Bước 3: Kiểm tra, đôn đốc thực hiện:
Sau khi kế hoạch đã được duyệt, xí nghiệp cần tổ chức thực hiện đúng thời gian đã quy định, giúp đỡ các bộ môn, đội, tổ làm tốt nhiệm vụ theo kế hoạch đã phân công.
Phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn các sai sót trong việc thi hành quy phạm.
Bộ Lao động đề nghị các Bộ, các ngành chủ quản, các Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố, sau khi nhận được thông tư này, chỉ thị cho các xí nghiệp trực thuộc có khai thác đá phải chấp hành nghiêm chỉnh quy phạm, đồng thời tạo mọi điều kiện cho các xí nghiệp thi hành quy phạm được tốt.
Các Sở, Ty, Phòng Lao động phối hợp với Liên hiệp công đoàn tổ chức hội nghị phổ biến quy phạm cho các ngành có liên quan đến việc khai thác đá và các xí nghiệp khai thác đá trong địa phương và cùng bàn kế hoạch thực hiện.
Trong khi thi hành, nếu gặp khó khăn mắc mứu gì, đề nghị các ngành, các cấp phản ánh cho Bộ Lao động để nghiên cứu hướng dẫn thêm.
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ BỘ LAO ĐỘNG |
QUY PHẠM KỸ THUẬT AN TOÀN KHAI THÁC ĐÁ
(Ban hành kèm theo Thông tư số 12-LĐ-TT ngày 14-07-1964)
Chương 1:
Ghi chú: Danh từ xí khai thác đá trong quy phạm này dùng để chỉ cơ sở khai thác mà trước đây gọi là mỏ đá quản lý nhiều công trường lẻ hoặc công trường khai thác độc lập có kế hoạch và hạch toán kinh tế riêng.
Khi làm việc công nhân phải sử dụng những trang bị bảo hộ lao động đã được cung cấp.
Chương 2:
AN TOÀN KHI LÀM VIỆC Ở TRÊN NÚI
a) Yêu cầu chung:
Khai thác thủ công, mặt tầng phải rộng trên 2 mét, nếu khai thác cơ khí bằng máy khoan hơi ép... phải trên 3 mét. Nếu vận chuyển bằng xe goòng mặt tầng phải rộng trên 4 mét. Độ dốc của sườn tầng đang khai thác không được quá 800.
Khi có người làm việc trên núi, ở dưới chân núi không được bố trí người làm việc trong phạm vi nguy hiểm. (Phạm vi nguy hiểm dưới chân núi khi có người làm việc trên núi do Ban chỉ huy công trường quy định).
Dây an toàn phải được kiểm tra thường xuyên nếu thấy kém phẩm chất phải thay ngay, cứ ba tháng phải thử dây một lần với trọng tải 350kg trong vòng năm phút.
Tại những công trường nhỏ, chỉ khai thác đá trong một thời gian không quá một năm, nếu làm lối lên xuống gặp khó khăn, có thể lên xuống núi bằng thang dây hoặc dây leo nhưng phải được Bộ chủ quản hoặc Ủy ban hành chính tỉnh cho phép bằng văn bản, có kèm theo những biện pháp ngăn ngừa tai nạn mà xí nghiệp bắc buộc phải thực hiện.
Điều 20. - Cấm làm việc trên núi khi trời mưa to, có sương mù dày hoặc khi trời tối.
b) An toàn khi đục đá:
Người cầm choòng không được ngồi đối diện hoặc hai bên búa, phải ngồi chéo góc 1200 với người đánh búa để tránh búa văng vào người. Người cầm búa không được mang găng tay.
c) An toàn khi sử dụng máy khoan đá bằng hơi ép:
Khi đứng khoan ở gần mép tầng cao trên 3 mét phải buộc dây an toàn vào người và máy khoan bằng hai đường dây riêng biệt.
d) An toàn khi cạy gỡ đá trên núi:
Điều 37. – Không được dùng tay thay xà-beng cạy hoặc vần đá.
Khi bẩy những hòn đá to có thể văng xa phải quan sát phía dưới và báo cho người canh gác mở rộng phạm vi nguy hiểm, không cho người đi lại hoặc làm việc trong phạm vi đó.
Chương 3:
AN TOÀN KHI SỬ DỤNG THUỐC NỔ BẮN ĐÁ
Xí nghiệp khai thác đá phải chú trọng thực hiện đúng các quy định cụ thể dưới đây.
Điều 43. – Những người làm công tác bắn mìn phá đá phải là những người:
- Đã qua lớp học chuyên môn về tính chất các loại kíp, thuốc nổ, và các phương pháp bắn mìn;
- Đã học tập quy phạm an toàn bảo quản, vận chuyển và sử dụng vật liệu nổ;
- Sau khi học tập và qua sát hạch, có đạt yêu cầu, được Ban chỉ huy hoặc giám đốc duyệt, cấp giấy chứng nhận về chuyên môn và an toàn lao động mới được làm công tác nổ mìn.
Nếu là người mới chưa làm công tác bắn mìn, thì sau khi học tập phải qua một thời gian tập sự hai tháng dưới sự hướng dẫn của thợ mìn có kinh nghiệm, khi được tập thể công nhân có đủ khả năng mới được cấp giấy chứng nhận độc lập công tác.
1. Sơ đồ bố trí các lỗ khoan:
2. Đường kính và chiều sâu các lỗ khoan;
3. Đoạn nhồi thuốc và đoạn nút lỗ, lượng thuốc trong mỗi lỗ, chiều dài dây cháy chậm của mỗi lỗ.
4. Ranh giới vùng nguy hiểm, nơi bố trí canh gác;
5. Tổng số các lỗ mìn bắn trong một đợt. Phân công cụ thể mỗi người đốt mấy lỗ;
6. Hướng chạy và nơi ẩn nấp của công nhân đốt mìn;
7. Những điều cần chú ý về an toàn lao động trong khi tiến hành công tác.
Chú thích: Bán kính vùng nguy hiểm đối với người vì mảnh đá văng tới phải do hộ chiếu quy định dựa vào phương pháp nổ mìn và điều kiện thực tế từng nơi. Nhưng ít nhất cũng phải bằng hoặc lớn hơn bảng chỉ dẫn dưới đây:
Phương pháp nổ mìn |
Bán kính vùng nguy hiểm (tính theo mặt phẳng ngang) |
- Phá đá quá cỡ (đá một) - Nổ mìn trong đá liền (đá via) mìn lô nhỏ, mìn ốp hoặc kề: - Nổ mìn buồng: |
Ít nhất 400 mét Ít nhất 300 mét Theo thiết kế |
Tín hiệu gồm có:
1. Tín hiệu giới nghiêm: tất cả mọi người không có trách nhiệm về bắn mìn phải ra khỏi khu vực nguy hiểm. Bố trí canh tác không cho người tới khu vực nguy hiểm, thợ mìn bắt đầu nạp thuốc.
2. Tín hiệu chuẩn bị nổ mìn: khi tất cả công nhân bắn mìn đã nhồi thuốc xong, người phụ trách bắn mìn mới báo hiệu chuẩn bị, công nhân đốt mìn chuẩn bị dụng cụ để đốt.
3. Tín hiệu nổ mìn: trước khi báo tín hiệu nổ mìn người phụ trách bắn mìn phải đi kiểm tra lại việc nạp mìn, nếu thợ mìn đã chuẩn bị sẵn sàng bảo đảm an toàn mới phát tín hiệu nổ mìn.
4. Tín hiệu thôi lệnh giới nghiêm: sau khi mìn nổ hết, cán bộ phụ trách bắn mìn phải kiểm tra lại, nếu còn thuốc nổ vương vãi phải thu dọn hết mới phát tín hiệu thôi lệnh giới nghiêm. Nếu có mìn câm phải giữ nguyên lệnh giới nghiêm cho tới khi giải quyết mìn câm xong.
Nhiều công trình khai thác gần nhau, phải thống nhất giờ nổ mìn.
Khi cho dây vào kíp không được ấn mạnh hoặc xoay.
Không được cho dây vào kíp rồi mới cắt.
Không được dùng răng cắn kíp cho gắn liền vào dây mà phải có kìm bấm kíp.
Chương 4:
AN TOÀN KHI LÀM VIỆC Ở CHÂN NÚI
Búa đập đá hộc không được nặng quá 5kg.
Điều 75. – Khi đập đá hộc phải chú ý:
- Không đứng quay lưng vào núi;
- Trước khi đập phải gạt hết đá vụn ở trên hòn đá sắp đập, để mảnh đá đỡ văng;
- Các búa có mồ hôi, phải lau khô ngay và phải thường xuyên kiểm tra lại cán búa, đề phòng gẫy hoặc tụt búa gây ra tai nạn.
Điều 76. - Nếu có nhiều người cùng đập, phải đứng thành hàng ngang và cách nhau ít nhất 5m.
Điều 79. - Chỗ đập đá dăm phải cách xa chân núi ít nhất 20m và cách chỗ đập đá hộc 10m.
Khi đập đá phải luôn luôn xem lại cán búa và nêm cho chắc chắn, phải chú ý vào công việc, tránh đập vào tay.
Xí nghiệp phải làm lán che mua nắng cho công nhân đập đá dăm ở công trường.
Chương 5:
1. Gánh đá:
Điều 84. – Không được vào khu vực nguy hiểm để bốc đá (trên sắp bắn bẩy hoặc đang bắn bẩy, nơi đang đập đá hộc, phía trên có người đang làm việc hoặc đi lại...).
Bốc đá ở đống phải lấy từ trên xuống, không được moi chân đống đá.
Trước khi gánh phải kiểm tra lại dây quang, đòn gánh, nếu thấy dây quang sờn sắp đứt, đòn gánh mất mấu hoặc nứt gẫy phải thay hoặc sửa lại cho chắc chắn.
Điều 87. - Đường để gánh đá phải bằng phẳng, nếu độ dốc lớn phải làm bậc vững chắc.
Cầu để gánh đá qua sông ngòi... phải vững, rộng ít nhất 60cm có tay vịn chắc chắn và phải có biện pháp chống trơn trượt khi trời mưa.
2. Vận chuyển bằng xe cút-kít:
Tới chỗ đường dốc hai xe phải cách nhau ít nhất 10m. Khi đẩy xe đá lên dốc phải chú ý đề phòng đá lăn vào chân.
Điều 91. – Khi đổ đá phải giữ hai càng xe cho chắc chắn, đề phòng tuột tay càng xe đánh vào người.
Cầu cho xe đi qua phải cứng, lát bằng phẳng đủ rộng cho xe đi lại được an toàn.
3. Vận chuyển bằng xe goòng:
Điều 93. – Khi đặt đường goòng phải theo đúng các yêu cầu sau đây:
a) Độ dốc của đường không được quá 8 – 10 phần nghìn.
b) Chỗ đường vòng phải làm theo hình cánh cung, không gẫy khúc, ray ngoài phải cao hơn ray trong (cao hơn nhiều hay ít là tùy theo độ cong, độ cong càng lớn thì ray ngoài càng phải cao hơn nhiều) để khi xe goòng đi qua không bị lật đổ.
c) Khi đặt ray hay tà-vẹt phải kê chắc chắn, không được để cập kênh, sau đó phải đổ đất đá cho bằng phẳng để công nhân đẩy goòng đi lại được dễ dàng không vấp ngã.
d) Khoảng cách giữa hai đường ray phải đều và song song, không nhấp nhô hoặc lượn ra, lượn vào.
e) Đoạn nối giữa hai ray phải có một khoảng hở từ 5-15 ly để khi ray co dãn không bị cong; chỗ nối phải có hai thanh nối kẹp hai bên ray và bắt bu-lông chắc chắn.
g) Đoạn cuối đường ray phải làm hơi dốc lên và đóng cọc vững chắc đề phòng goòng lao ra ngoài.
h) Hai bên đường goòng phải để mỗi bên một lối đi rộng tối thiểu 60cm, không được để các vật chướng ngại trên lối đi này.
Không được đứng đằng trước goòng để kéo.
Goòng không có phanh chân tốt, không được đứng lên tăm-pông của goòng khi goòng đang chạy.
Điều 101. – Xe goòng nhất thiết phải có phanh hãm tốt để khi cần thiết có thể hãm goòng dừng lại.
4. Vận chuyển đá bằng ô-tô:
Chương 6:
PHẠM VI VÀ TRÁCH NHIỆM THI HÀNH
Giám đốc xí nghiệp và cán bộ điều khiển sản xuất có trách nhiệm tổ chức và hướng dẫn thực hiện đúng đắn bản quy phạm.
Những người vì thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc cố tình vi phạm bản quy phạm này sẽ bị thi hành kỷ luật, trường hợp để xảy ra tai nạn có thể bị truy tố trước tòa án.