Thông tư 07-TT/ĐKKD năm 1993 hướng dẫn đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể do Trọng tài kinh tế Nhà nước ban hành
Số hiệu | 07-TT/ĐKKD |
Ngày ban hành | 28/01/1993 |
Ngày có hiệu lực | 12/02/1993 |
Loại văn bản | Thông tư |
Cơ quan ban hành | Trọng tài kinh tế Nhà nước |
Người ký | Lê Tài |
Lĩnh vực | Doanh nghiệp,Văn hóa - Xã hội |
TRỌNG
TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 07-TT/ĐKKD |
Hà Nội, ngày 28 tháng 1 năm 1993 |
Căn cứ quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý các đơn vị kinh tế của Đảng và đoàn thể (văn bản số 283/CN ngày 16 tháng 1 năm 1993 của Văn phòng Chính phủ), Trọng tài Kinh tế Nhà nước hướng dẫn các doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể, Trọng tài Kinh tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp này như sau:
I. MỤC ĐÍCH ĐĂNG KÝ KINH DOANH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CỦA ĐẢNG VÀ ĐOÀN THỂ
Thực hiện nguyên tắc các doanh nghiệp bình đẳng trước pháp luật, doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể cũng như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, đều phải tiến hành đăng ký kinh doanh tại Trọng tài Kinh tế. Mục đích đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể là:
1. Xác nhận địa vị pháp lý của doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể trong hoạt động kinh doanh. Mọi doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh đều phải đăng ký tại cơ quan pháp luật để có tư cách doanh nghiệp, được quyền thiết lập các quan hệ kinh tế trong khuôn khổ pháp luật, được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp theo luật định.
2. Thông qua đăng ký kinh doanh, Nhà nước thực hiện việc giám sát quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ngăn chặn hoạt động kinh doanh trái pháp luật; Nhà nước nắm được trạng thái hoạt động của doanh nghiệp theo các ngành nghề, theo vùng lãnh thổ để tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về kinh tế; để có căn cứ pháp lý làm cơ sở xử lý tài sản trong trường hợp các doanh nghiệp này giải thể hoặc phá sản.
II.TRÁCH NHIỆM VÀ THẨM QUYỀN ĐĂNG KÝ KINH DOANH
Việc đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ. Chỉ sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể mới có tư cách pháp nhân, mới được tổ chức hoạt động kinh doanh theo ngành nghề đã đăng ký. Việc đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể phải thực hiện trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày có quyết định thành lập doanh nghiệp.
Đối với Trọng tài Kinh tế, thực hiện việc đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể là nhiệm vụ và quyền hạn được giao theo quy định tại đoạn 2 Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài Kinh tế.
Trọng tài Kinh tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể đã có quyết định thành lập theo đúng quy định tại văn bản 283/CN ngày 16 tháng 1 năm 1993 và có trụ sở chính đặt trên lãnh thổ tỉnh, thành phố của mình.
Trọng tài Kinh tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc đăng ký kinh doanh cho các chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố của mình cấp giấy phép cho đặt chi nhánh, văn phòng đại diện trên lãnh thổ tỉnh, thành phố.
III. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KINH DOANH
A. ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP LẠI (DOANH NGHIỆP ĐÃ ĐƯỢC THÀNH LẬP TRƯỚC NGÀY 16/1/1993, NAY LÀM LẠI THỦ TỤC THÀNH LẬP)
Hồ sơ đăng ký kinh doanh phải có gồm:
1. Thông báo bằng băn bản của Hội đồng thẩm định của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh, sau khi đã có quyết định của Hội đồng thẩm định) nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính đồng ý cho cơ quan sáng lập được phép thành lập doanh nghiệp (bản chính +1 bản sao).
2. Quyết định thành lập doanh nghiệp của thủ trưởng cơ quan sáng lập (bản chính + 5 bản sao).
3 . Điều lệ (hoặc bản quy chế, nội quy) hoạt động của doanh nghiệp, đã được cơ quan sáng lập xác nhận hoặc cho phép áp dụng (1 bản sao).
4 . Bản kê khai các loại vốn của doanh nghiệp có sự xác nhận của cơ quan sáng lập. Nếu doanh nghiệp có sử dụng vốn thuộc Ngân sách Nhà nước thì phải có sự xác nhận của cơ quan tài chính cùng cấp với cơ quan sáng lập (5 bản sao).
5. Giấy chứng nhận quyền sử dụng nơi doanh nghiệp đặt làm trụ sở giao dịch (hợp đồng thuê nhà, giấy phép xây dựng trụ sở..) (1 bản sao).
Khi doanh nghiệp có đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh nói trên, Trọng tài Kinh tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm ngay thủ tục đăng ký kinh doanh và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, mà không phải xem xét gì thêm về nội dung đăng ký của doanh nghiệp. Sau khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Trọng tài Kinh tế tỉnh gửi lại các bản sao giấy tờ nói trên để lưu hồ sơ và gửi đến các cơ quan hữu quan như đối với doanh nghiệp Nhà nước trả lại các bản chính cho doanh nghiệp.
B. ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CỦA ĐẢNG VÀ ĐOÀN THỂ ĐÃ CHUYỂN ĐỔI SANG LOẠI HÌNH CÔNG TY VÀ ĐÃ ĐƯỢC CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ KINH DOANH
a. Nếu cơ quan sáng lập của doanh nghiệp không làm thủ tục để thay đổi lại loại hình doanh nghiệp (tức là vẫn giữ nguyên loại hình công ty) thì không phải làm lại thủ tục đăng ký kinh doanh. Trong trường hợp này, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã cấp cho doanh nghiệp vẫn có giá trị pháp lý.
b. Nếu cơ quan sáng lập của doanh nghiệp làm thủ tục thành lập theo qui định tại văn bản 283/CN ngày 16 tháng 1 năm 1993, thì phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh theo qui định tại điểm A mục III nói trên. Trong trường hợp này, khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Trọng tài Kinh tế phải thu hồi lại giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã cấp trước đây.
C. ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP MỚI THÀNH LẬP
(Thành lập sau ngày 16-1-1993)
Hồ sơ đăng ký kinh doanh phải có gồm:
1. Thông báo bằng văn bản của Thủ tướng Chính phủ (đối với doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể cấp trung ương), của Bộ trưỏng Bộ quản lý ngành (đối với doanh nghiệp của Đảng và đoàn thể cấp tỉnh) đồng ý cho cơ quan sáng lập được phép thành lập doanh nghiệp (bản chính + 1 bản sao).