Pháp lệnh Trọng tài kinh tế năm 1990 do Hội đồng Nhà nước ban hành

Số hiệu 31-LCT/HĐNN8
Ngày ban hành 10/01/1990
Ngày có hiệu lực 12/01/1990
Loại văn bản Pháp lệnh
Cơ quan ban hành Hội đồng Nhà nước
Người ký Võ Chí Công
Lĩnh vực Thủ tục Tố tụng

HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
-----

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------

Số: 31-LCT/HĐNN8

Hà Nội, ngày 10 tháng 01 năm 1990

 

PHÁP LỆNH

TRỌNG TÀI KINH TẾ

Để bảo đảm hiệu lực của chế độ hợp đồng kinh tế, góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kinh tế ;
Căn cứ vào các Điều 34, 100 và 107 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ;
Pháp lệnh này quy định tổ chức Trọng tài kinh tế và tố tụng trọng tài kinh tế.

Chương I.

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1.

Trọng tài kinh tế là cơ quan giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế và thực hiện quản lý Nhà nước về chế độ hợp đồng kinh tế theo quy định của pháp luật.

Trong phạm vi chức năng của mình, Trọng tài kinh tế giữ vững kỷ luật hợp đồng kinh tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, đề cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ kinh tế.

Bằng hoạt động của mình, Trọng tài kinh tế tác động tích cực đến các đơn vị kinh tế, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội nhằm duy trì, phát triển các quan hệ kinh tế, đẩy mạnh sản xuất lưu thông hàng hoá, phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kinh tế.

Điều 2.

Trọng tài kinh tế có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây :

1- Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế ;

2- Kiểm tra, kết luận và xử lý các hợp đồng kinh tế trái pháp luật ;

3- Tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện pháp luật hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế ;

4- Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế.

Trọng tài kinh tế có thể được giao nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi cần thiết.

Điều 3.

Khi giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế, Trọng tài viên chỉ tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về các quyết định của mình. Không một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế của Trọng tài viên.

Điều 4.

Trọng tài kinh tế giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng kinh tế có tranh chấp, các quy định của pháp luật hợp đồng kinh tế và các quy định pháp luật khác có liên quan, theo nguyên tắc thương lượng để thoả thuận phù hợp với pháp luật. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được hoặc thoả thuận trái pháp luật thì Trọng tài kinh tế quyết định.

Điều 5.

Các bên tranh chấp bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng trọng tài kinh tế.

Các bên tranh chấp tự mình hoặc thông qua đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bằng tranh luận và chứng minh trước Trọng tài kinh tế.

Các bên tranh chấp có quyền nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình ; có quyền dùng tiếng nói, chữ viết thông dụng của mình và người phiên dịch trong tố tụng trọng tài kinh tế.

Điều 6.

Quyết định của trọng tài kinh tế có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ký ; các đương sự phải nghiêm chỉnh thi hành ; các đơn vị kinh tế, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi cá nhân phải tôn trọng.

Các đơn vị kinh tế, cơ quan, tổ chức hữu quan, theo chức năng của mình có trách nhiệm thi hành quyết định của Trọng tài kinh tế.

Quyền kháng cáo quyết định của Trọng tài kinh tế được bảo đảm.

[...]