Thông tư 07-TD/TCN năm 1958 giải thích việc thi hành Chỉ thị 014-TTg quy định tạm thời nguyên tắc Ngân hàng quốc gia cho Mậu dịch Quốc doanh vay tiền thu mua nông, lâm, thổ, hải sản và hàng hóa do Bộ Thương Nghiệp- Ngân Hàng Quốc Gia ban hành

Số hiệu 07-TD/TCN
Ngày ban hành 28/02/1958
Ngày có hiệu lực 15/03/1958
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Thương nghiệp,Ngân hàng quốc gia
Người ký Đặng Việt Châu,Lê Viết Lượng
Lĩnh vực Tiền tệ - Ngân hàng

BỘ THƯƠNG NGHIỆP-NGÂN HÀNG QUỐC GIA
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 07-TD/TCN

Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 1958 

 

THÔNG TƯ

GIẢI THÍCH VỀ VIỆC THI HÀNH CHỈ THỊ SỐ 014-TTG NGÀY 07-01-1958 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH TẠM THỜI NGUYÊN TẮC VỀ VIỆC NGÂN HÀNG QUỐC GIA CHO MẬU DỊCH QUỐC DOANH VAY TIỀN THU MUA NÔNG, LÂM, THỔ, HẢI SẢN VÀ HÀNG HÓA

Mục 1:

MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA VIỆC THU MUA

Vấn đề thu mua là một vấn đề rất cần thiết và quan trọng, vì có thực hiện được kế hoạch thu mua thì Nhà nước mới nắm được vật tư, để có lực lượng bình ổn vật giá, cải tạo xã hội chủ nghĩa thương nghiệp tư bản tư doanh, đảm bảo nguyên liệu cho các nhà máy quốc doanh và các xưởng thủ công, tiếp tế thực phẩm cho bộ đội, cán bộ, công nhân, nhân dân thành thị, để có hàng xuất khẩu, hàng dự trữ cho Nhà nước và để giúp nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp, nâng cao dần đời sống vật chất và văn hóa.

Trong các năm qua, Nhà nước đã bỏ ra một số tiền lớn để thu mua các loại nông, lâm, thổ, hải sản và các loại hàng gia công. Số tiền mặt Ngân hàng quốc gia bỏ ra cho Mâu dịch vay để thu mua, đã giúp vào việc thực hiện kế hoạch khôi phục và phát triển nông nghiệp, đảm bảo kế hoạch công nghiệp (cung cấp nguyên liệu, thực phẩm cho nhà máy) và kế hoạch thương nghiệp (Mậu dịch có lực lượng bình ổn thị trường và để xuất khẩu) cũng như kế hoạch dự trữ của Nhà nước. Tiền mặt tung ra thị trường đã có hàng hóa trong tay Nhà nước đảm bảo.

Nhưng trong việc thu mua của Mậu dịch cũng như việc cho vay của Ngân hàng còn nhiều thiếu sót; mạng lưới thu mua chưa được tổ chức rộng rãi, cán bộ thu mua thiếu, kho tàng chuẩn bị chưa đầy đủ. Việc thu mua tiến hành ở các địa phương, trái lại việc cho vay của Ngân hàng lại làm ở Trung ương cho các Tổng Công ty và các Tổng Công ty phân phối lại cho các Công ty địa phương do đó việc cung cấp phương tiện tiền tệ thường bị động và chậm, không sát yêu cầu. Ngân hàng Trung ương không thực hiện được việc kiểm tra sử dụng vốn, không nắm được tình hình thực hiện kế hoạch thu mua để chuẩn bị vốn kịp thời và vận dụng vốn cho linh hoạt. Các Chi nhánh Ngân hàng địa phương không tham gia vào việc kiểm tra, theo dõi việc sử dụng tiền vay vào thu mua. Các cấp chính quyền, đoàn thể địa phương còn chưa quan tâm đúng mức đến việc giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát thu mua.

Trong lúc chờ Mậu dịch quốc doanh phân cấp quản lý và Ngân hàng Trung ương giao cho các tổ chức Ngân hàng địa phương trực tiếp cho vay, để sửa chữa tình trạng trên, ngày 07-01-1958, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 014-TTg quy định một số nguyên tắc tạm thời Ngân hàng cho Mậu dịch quốc doanh vay để thu mua. Trong tình trạng hiện nay Ngân hàng trung ương trực tiếp cho các Tổng Công ty vay tiền và chuyển tiền vay của các Tổng Công ty về cho các Công ty địa phương. Các chi nhánh Ngân hàng tỉnh thay mặt Ngân hàng trung ương có trách nhiệm cùng các Ty Công thương kiểm soát việc sử dụng các số tiền vay. Việc thu nợ cũng tạm thời do Ngân hàng trung ương làm.

Liên bộ Thương nghiệp và Ngân hàng quốc gia Việt Nam quy định những chi tiết thi hành Chỉ thị trên như sau:

Mục 2:

VIỆC CHO VAY THU MUA VÀ THU HỒI NỢ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG :

a) Đối tượng cho vay:

Điều 1. – Ngân hàng quốc gia cho Mậu dịch quốc doanh vay để thu mua các loại lương thực, thực phẩm, lâm thổ sản, nông hải sản, cụ thể là: thóc, gạo, ngô, đỗ, vừng, lạc, khoai, sắn, thịt, đường, chè, bông, thuốc lá, đay, gai, cói, thầu dầu, sa nhân, hoa hồi,v.v… và các hàng gia công đặt trước như bát đĩa, đồ gia đình, giày vải, maillot, bít tất, v.v… được Nhà nước chuẩn y cho thu mua.

b) Mức tiền cho vay:

Điều 2. – Căn cứ vào kế hoạch thu mua từng vụ, từng thời kỳ đã được Nhà nước duyệt y, Ngân hàng quốc gia tính toán mức tiền cho vay theo giá mua kế hoạch cộng thêm tiền cước phí vận chuyển và thuế hàng hóa (trong trường hợp Mậu dịch quốc doanh phải trả thuế ấy). Còn những phương tiện khác để thực hiện thu mua thì do vốn lưu động riêng của Mậu dịch quốc doanh thỏa mãn.

Điều 3. – Ngân hàng quốc gia cho vay tiền cần thiết dần dần theo mức thực hiện kế hoạch thu mua đã được Nhà nước duyệt y với các điều kiện.

1) Toàn bộ hệ thống Mậu dịch quốc doanh phải bảo đảm được các chỉ tiêu thu mua và bán ra để đảm bảo ổn định vật giá và tiền tệ.

2) Mậu dịch quốc doanh phải nộp tất cả các khoản tiền bán hàng và các khoản thu khác vào Ngân hàng, trừ số tiền đã quy định được giữ lại tại quỹ để trả lương, chi tiêu vặt, v.v… Trong quá trình tung tiền ra thu mua, Mậu dịch quốc doanh cần cố gắng tăng cường các khoản thu, đảm bảo kế hoạch thu chi tiền mặt của hệ thống thương nghiệp quốc doanh đã được Nhà nước duyệt y cho từng quý, có chia từng tháng để đề phòng tình trạng thị trường không ổn định có thể xẩy ra.

Điều 4. - Trường hợp cần thu  mua vượt mức kế hoạch đã được Nhà nước duyệt y, Mậu dịch quốc doanh phải báo cáo lên Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Sau khi được Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Thủ tướng Chính phủ đồng ý, Mậu dịch quốc doanh sẽ được tiếp tục vay thêm tiền dần dần để thực hiện phần vượt mức kế hoạch để được duyệt y.

c) Thời gian cho vay

Điều 5. - Thời hạn cho vay căn cứ vào thời gian thu mua dài hay ngắn của từng loại sản phẩm đã định trong kế hoạch được Nhà nước duyệt y. Nhưng nói chung thời hạn cho vay thu mua đối với bất cứ loại sản phẩm nào cũng không được quá 3 tháng.

Điều 6. – Trong quá trình thu mua, các vật tư được phân phối, và sử dụng đi chừng nào, Mậu dịch quốc doanh phải trả bớt nợ cho Ngân hàng chừng ấy. Sau khi hoàn thành kế hoạch thu mua, nếu Mậu dịch chưa trả hết nợ, Ngân hàng sẽ cho vay một khoản mới về dự trữ tồn kho để trả hết các khoản nợ vay về thu mua. Mức tiền cho vay về tồn kho tính theo giá trị hàng tồn kho theo kế hoạch được Bộ Thương nghiệp và Thủ tướng Chính phủ duyệt y, trừ đi số vốn lưu động tự có của Mậu dịch.

Điều 7. - Thời hạn cho vay về dự trù tồn kho sẽ căn cứ vào thời gian phân phối và sử dụng đã định theo kế hoạch tồn kho của vật tư thu mua được.

Điều 8.- Khi vay về dự trữ tồn kho, Mậu dịch quốc doanh phải có kế hoạch trả dần bớt nợ và trả hết nợ đưa cho Ngân hàng. Việc trả bớt nợ có thể tiến hành mỗi tháng 2 hoặc 3 kỳ tùy theo sự thỏa thuận giữa đôi bên. Ngân hàng sẽ căn cứ vào kế hoạch đó mà thu hồi nợ về. Mậu dịch phải có trách nhiệm đảm bảo kế hoạch trả nợ của mình đối với ngân hàng.

Điều 9. – Khi hết thời hạn vay về dự trữ tồn kho, nếu vì nguyên nhân khách quan mà các vật tư chưa được phân phối và sử dụng hết, Mậu dịch quốc doanh có thể trình bày lý do xin gia thêm thời hạn. Nhưng nếu do nguyên nhân chủ quan gây nên, Mậu dịch quốc doanh phải trả hết nợ cho Ngân hàng. Trường hợp không trả được hết nợ, Ngân hàng sẽ chuyển qua “nợ quá hạn” và tăng lợi suất 1 gấp rưỡi đối với số tiền nợ quá hạn trong những ngày quá hạn. Đơn vị Mậu dịch phải thanh toán xong số nợ quá hạn rồi mới được xin vay khoản khác.

Những nguyên nhân khách quan và chủ quan có thể là:

Khách quan:

- Trường hợp phải thu mua lâm thổ sản của nông dân vượt kế hoạch, sau khi được cấp trên duyệt y.

[...]