BỘ
NỘI VỤ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
07-NV
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 02 năm 1964
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP CHÔN CẤT, SỬA SANG, TRÔNG
NOM MỒ MẢ, QUẢN LÝ HỒ SƠ, BẢO QUẢN DI SẢN CỦA CÁN BỘ VÀ ĐỒNG BÀO MIỀN NAM CHẾT Ở
MIỀN BẮC
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
Kính
gửi:
|
-Các ông bộ trưởng;
-Các
ông thủ trưởng các cơ quan ngang bộ và cơ quan trực thuộc hội đồng chính phủ
;
-Các
ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh;
-Các
ban chấp hành các đoàn thể ở trung ương.
|
Trước đây, Bộ Nội vụ có ra Thông
tư số 34-PQC ngày 05/11/1956 hướng dẫn việc thi hành Chỉ thị số 1000-TTg ngày
04/8/1956 của Phủ Thủ tướng (phần thứ IV) quy định chế độ mai táng, sửa sang mồ
mả của cán bộ, đồng bào miền Nam chết ở miền Bắc.
Căn cứ vào tình hình thực tế hiện
nay, sau khi thống nhất ý kiến với Ủy ban thống nhất, Bộ Nội vụ hướng dẫn việc
thi hành chế độ trợ cấp chôn cất, trông nom và sửa sang mồ mả, quản lý hồ sơ, bảo
quản di sản của cán bộ, đồng bào miền Nam đã chết như sau:
I. TRỢ CẤP CHÔN CẤT
1. Những người miền Nam kể
sau không thuộc đối tượng áp dụng điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội,
khi chết đi thì được hưởng chế độ trợ cấp chôn cất theo thông tư này:
- Người miền Nam sống tự túc hoặc
dựa vào gia đình (kể cả thương binh, bệnh binh, quân nhân phục viên là người miền
Nam chết, không đủ tiêu chuẩn để hưởng chế độ chôn cất nói ở Thông tư số
19-TT-LB ngày 19/3/1962 của liên Bộ Nội vụ - Y tế - Tài chính).
- Người miền Nam hưởng chế độ an
dưỡng, điều dưỡng ở phân tán hoặc ở trong các trại an dưỡng của Nhà nước;
- Học sinh, sinh viên miền Nam;
- Trẻ em miền Nam tập kết hoặc
ra miền Bắc sau ngày hòa bình lập lại;
2. Trợ cấp chôn cất
do quỹ cứu tế xã hội của địa phương đài thọ, gồm những khoản chi phí sau
đây tính theo thời giá ở địa phương:
- Tiền mua một cỗ áo quan;
- Tiền mua 6m vải liệm;
- Tiền mua hương, nến, hoa (một
vòng);
- Tiền thuê người chôn cất;
- Tiền thuê xe tang (nếu ở thành
phố);
- Tiền thuê đất ở nghĩa trang (nếu
có);
- Tiền mua và khắc tên một bia
đá;
- Tiền xây mộ;
- Tiền chụp hai kiểu ảnh cỡ 6x9:
một số kiểu khi khâm liệm, một kiểu khi cử hành tang lễ (nếu có điều kiện).
Riêng đối với trẻ em miền Nam chết
có cha hoặc mẹ ở miền Bắc thì gia đình chỉ được hưởng các khoản tiền mua áo
quan, vải liệm, thuê người chôn cất, thuê xe tang. Nếu gia đình muốn xây mộ,
làm bia, chụp ảnh hoặc sắm các khoản khác như vòng hoa, hương nến thì phải chịu
lấy tiền phí tổn.
3. Những người miền Nam
sau đây không thuộc đối tượng được hưởng chế độ trợ cấp chôn cất:
- Người miền Nam ra Bắc làm ăn
trước ngày hòa bình lập lại;
- Người quê ở miền Bắc vào làm
ăn ở miền Nam, sau ngày hòa bình lập lại, trở về quê quán;
- Con cán bộ, đồng bào miền Nam
đẻ tại miền Bắc (trừ các trẻ em thuộc Ủy ban thống nhất quản lý và các trẻ em mồ
côi cả cha lẫn mẹ).
II. VỀ CHÔN CẤT, SỬA SANG,
TRÔNG NOM, MỒ MẢ, XÂY DỰNG NGHĨA TRANG.
1. Việc chôn cất:
Khi một cán bộ hay đồng bào miền
Nam thuộc cơ quan hoặc địa phương nào chết, thì cơ quan địa phương ấy có trách
nhiệm thi hành chế độ trợ cấp chôn cất, rồi giao lại mộ đã xây cho Ủy ban hành
chính khu, thành, tỉnh nơi chôn cất trông nom.
Khi một người miền Nam chết ở bệnh
viện mà chưa rõ thuộc cơ quan hoặc địa phương nào quản lý thì bệnh viện lo liệu
việc chôn cất (tiền do qũy cứu tế xã hội đài thọ). Nếu người miền Nam đó chết ở
ngoài bệnh biện thì Ủy ban hành chính sở tại thi hành chế độ trợ cấp chôn cất.
2. Việc trông nom, sửa sang mồ
mả, xây dựng nghĩa trang:
Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh
có trách nhiệm tổ chức việc bảo quản mồ mả của đồng bào miền Nam trong địa
phương mình.
Đối với mồ mả đã xây nhưng nay bị
hư hỏng, mồ mả để đã lâu nhưng chưa xây mà không rõ cơ quan địa phương nào có
trách nhiệm trông nom, thì Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh nơi chôn cất lấy
kinh phí trích ở quỹ cứu tế xã hội để sửa chữa xây mộ, dựng bia.
Đối với mồ mả để tản mát không
tiện cho việc bảo quản thì Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh có thể cho di
chuyển vào các nghĩa trang của tỉnh, huyện, xã. Kinh phí về việc di chuyển do Ủy
ban hành chính khu, thành, tỉnh dự trù. Mỗi khi có việc di chuyển mồ mả, Ủy ban
hành chính khu, thành, tỉnh phải báo cáo và gửi bản sơ đồ mộ về Bộ Nội vụ để bổ
sung vào hồ sơ tử vong.
Ở những nơi có nhiều người miền
Nam ở tập trung, Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh nên thành lập nghĩa trang
riêng hoặc dành một khu riêng trong nghĩa trang chung cho người miền Nam. Đối với
người quê ở miền Bắc đã tham gia cách mạng ở miền Nam khi chết thì cũng có thể
theo nguyện vọng của gia đình, chôn cất ở nghĩa trang riêng của người miền Nam.
III. QUẢN LÝ HỒ SƠ TỬ VONG
Khi có một cán bộ, đồng bào miền
Nam thuộc cơ quan, địa phương nào chết thì cơ quan địa phương ấy có trách nhiệm
lập hồ sơ tử vong gồm có những giấy tờ sau đây:
1. Lý lịch của người chết;
2. Báo cáo nói rõ vì sao mà chết,
chết ngày nào, nơi chôn, tên và địa chỉ của thân nhân người chết.
3. Biên bản kiểm kê di sản, biên
bản bán di sản hay biên bản bàn giao di sản cho thân nhân người chết;
4. Bản sơ đồ ngôi mộ.
5. Quyết định trợ cấp tiền tuất.
Trường hợp chết không bình thường
như chết vì tai nạn, chết bất ngờ, tự sát v.v… thì ngoài các giấy tờ nói trên,
còn phải gửi thêm những giấy tờ có liên quan như biên bản khám nghiệm tử thi, kết
luận của cơ quan y tế, công an.
Hồ sơ tử vong lập thành ba bản:
một bản gửi Bộ Nội vụ, một bản gửi Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh nơi để mồ
mả, một bản lưu ở cơ quan quản lý cán bộ, đồng bào miền Nam khi còn sống.
IV. VIỆC GIẢI QUYẾT DI SẢN
1. Trường hợp có thân nhân ở
miền Bắc.
a) Nếu người chết có vợ hay chồng,
con, cha mẹ (gọi là thân nhân gần nhất) ở miền Bắc, thì cơ quan, địa phương lập
biên bản bàn giao di sản cho những người này thừa hưởng.
b) Nếu có thân nhân thuộc hàng
anh chị em ruột, con dâu, con rể thì cơ quan của người chết và ban thường trực
đồng hương tỉnh xét, nếu thấy họ là người có thể tín nhiệm được thì lập biên bản
bàn giao di sản cho họ bảo quản để sau này giao lại cho thân nhân gần nhất của
người chết, sau khi đã được sự đồng ý của Bộ Nội vụ.
c) Nếu thân nhân của người chết
còn bé (dưới 16 tuổi) hay bị mất trí, thì cơ quan, địa phương gửi di sản về Bộ
Nội vụ để bảo quản; khi có điều kiện, Bộ Nội vụ sẽ giao lại cho họ.
2. Trường hợp không có thân
nhân ở miền Bắc.
a) Khi có một cán bộ quê ở miền
Bắc đã tham gia cách mạng ở miền Nam chết mà không có ai là thân nhân ở cả hai
miền, thì cơ quan, địa phương lập biên bản bàn giao di sản cho Ủy ban hành
chính nơi nguyên quán của người chết để sử dụng vào việc công ích..
b) Khi người miền Nam chết có lập
di chúc hoặc có lời trối trăng thì cơ quan, địa phương lập biên bản giao di sản
cho người thừa kế (lời trối trăng phải được cơ quan, bệnh viện chứng nhận).
c) Khi người miền Nam chết mà
không có ai là vợ chồng, con, cha, mẹ, anh chị em ruột ở miền Bắc, thì cơ quan,
địa phương thành lập hội đồng định giá bán những vật không để lâu được như chăn
màn, quần áo, đồng hồ, xe đạp, bút máy, dụng cụ gia đình… rồi gửi số tiền bán
được cùng với số tiền tuất và những vật có tính chất lưu niệm hoặc để lâu được
như vàng, bạc thật, huân chương, huy chương, giấy khen, nhật ký, ảnh… về Bộ Nội
vụ để bảo quản.
V. THI HÀNH
Công tác quản lý cán bộ, đồng
bào miền Nam chết ở miền Bắc có ý nghĩa chính trị, có ảnh hưởng sâu xa đến tình
cảm của cán bộ, đồng bào miền Nam.
Thông tư số 129-CP ngày
25/9/1961 của Hội đồng Chính phủ đã quy định trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong việc
chỉ đạo việc quản lý mồ mả, quản lý hồ sơ và bảo quản các di sản của những người
miền Nam chết mà không có thân nhân ở miền Bắc.
Đề nghị các Bộ, các ngành ở
Trung ương cần nắm được tình hình cán bộ miền Nam thuộc Bộ, ngành mình đã chết
và đôn đốc các cơ quan thuộc quyền thực hiện đầy đủ các chế độ nói trong thông
tư này.
Các Ủy ban hành chính khu,
thành, tỉnh cần bố trí cán bộ theo dõi công tác này, đôn đốc các cơ quan ở địa
phương mình (kể cả các cơ quan thuộc Trung ương đóng ở địa phương) thực hiện đầy
đủ các chế độ và tổ chức việc trông nom, bảo quản mồ mả của đồng bào miền Nam.
Thông tư số 34-PQC ngày 05/11/1956 nay bãi bỏ.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
NỘI VỤ
Ung Văn Khiêm
|