BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
06-TC/HCP/P3
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 02 năm 1960
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC THANH TOÁN CÁC TRƯỜNG HỢP TỒN TẠI VỀ CÔNG PHIẾU,
CÔNG TRÁI
Kính gửi:
|
Ủy ban hành chính các khu, tỉnh,
thành phố
Các khu, Sở, Ty Tài chính.
|
Hiện nay, đợt 1 trả công phiếu
kháng chiến, công trái quốc gia căn bản đã kết thúc.
Thủ tướng Chính phủ đã ra
Thông tư số 464-TTg ngày 26-12-1959 cho trả tiếp đợt 2, nhằm giải quyết các trường
hợp tồn tại, theo nguyên tắc sau đây:
I. NGUYÊN TẮC
1. Có vay có trả, nhưng phải trả
đúng, không trả một phiếu hai lần hoặc trả lầm cho người không phải là chủ phiếu.
Do đó, đối với phiếu chính thức hợp lệ và biên lai hợp lệ thì thanh toán, đối với
các giấy tờ chứng nhận khác do các cơ quan hay cá nhân biên nhận đều không coi
là biên lai hợp lệ và không thanh toán.
2. Đối với phiếu của tư sản cũng
thanh toán, nhưng cơ quan tài chính chuyển toàn bộ số tiền sẽ thanh toán sang
Ngân hàng để Ngân hàng giải quyết theo thể lệ quản lý tiền mặt.
3. Đối với phiếu của địa chủ
kháng chiến, địa chủ thường thì cũng thanh toán, nhưng chỉ thanh toán đến 500 đồng;
đối với số tiền còn lại, Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh phải xét kỹ từng
trường hợp cụ thể để quyết định xem có nên thanh toán không, và nếu cho thanh
toán, thì cũng chỉ thanh toán dần.
Đối với phiếu của địa chủ cường
hào gian ác thì không thanh toán.
Đối với phiếu tịch thu của địa
chủ trong giảm tô và cải cách ruộng đất, cũng không thanh toán, theo đúng chính
sách sửa sai.
Căn cứ vào những nguyên tắc trên
đây, thì chỉ những trường hợp có phiếu chính thức hợp lệ, biên lai hợp lệ, của
các cơ quan phụ trách bán công phiếu kháng chiến và công trái quốc gia cấp mới
được thanh toán.
Vì vậy các địa phương cần nắm vững
nguyên tắc trên để giải quyết những trường hợp cụ thể, đảm bảo quyền lợi chính
đáng của người cho vay, đồng thời tránh trả lầm lẫn, gây thiệt hại cho công quỹ.
II. GIẢI QUYẾT
NHỮNG TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
Dưới đây là những trường hợp cụ
thể và hướng giải quyết:
A. TRƯỜNG HỢP
CÓ PHIẾU
1. Phiếu để quá hạn còn sót lại
trong đợt 1 hiện chưa được thanh toán:
Địa phương sẽ tiếp tục báo cáo
theo tinh thần Thông tư số 752-TC/HCP/P3 ngày 07-09-1959 để Bộ giải quyết nốt
các phiếu đó, trong đợt 2 này.
2. Phiếu ghi bí danh:
Phiếu ghi bí danh thường là phiếu
bán ở vùng hậu dịch. Nếu xác minh người có phiếu đúng là chủ phiếu thì trả được.
3. Phiếu còn nguyên cả cuống,
phiếu không đề tên, không có dấu, lại không có chữ ký. Phiếu chữa tên, ngày
tháng năm. Phiếu không ghi ngày tháng năm:
Phiếu bán ở tỉnh nào sẽ do Ủy
ban hành chính tỉnh đó điều tra, xác minh và quyết định trả hay không cho trả.
Đối với các phiếu tẩy chữa, có vết
tích cụ thể, thì địa phương sẽ giữ phiếu lại, không thanh toán, đồng thời cảnh
cáo chủ phiếu (Xem Thông tư số 314-TC/HCP/P3 ngày 12-02-1958).
Đối với công phiếu kháng chiến
không ghi ngày tháng năm, sẽ giải quyết theo tinh thần Thông tư số 132-TC/TDT
ngày 15-01-1957.
4. Phiếu tập thể:
Giải quyết theo tinh thần Thông
tư số 1809-TC/HCP/P3 ngày 31-08-1958.
Đối với phiếu đứng tên cá nhân đại
diện cho tập thể, cũng giải quyết như trên.
5. Phiếu rách nát:
Nếu còn đủ các phần chính, nghĩa
là còn có căn cứ chính xác thì có thể trả. Nếu các phần chính không đủ, nhưng
còn 3/4 tấm phiếu có thể xác minh được chắc chắn, thì cũng có thể thanh toán
(ít nhất phải còn 3/4 phiếu, không nhận trả 1/2 phiếu, vì nếu trả theo 1/2 phiếu,
thì một phiếu dứt đôi có thể lĩnh 2 lần hoặc trả lầm 2 lần).
6. Phiếu của tư sản:
Đối với phiếu của tư sản cũng
thanh toán, nhưng không trả thẳng tiền mặt cho chủ phiếu như đã quy định trước
đây trong Thông tư số 1272-TC/HCP/P3 ngày 19-11-1958 mà sẽ chuyển toàn bộ số tiền
được thanh toán sang Ngân hàng để Ngân hàng hành giải quyết theo thể lệ quản lý
tiền mặt.
7. Phiếu của địa chủ:
Trước đây, thể thức thanh toán
phiếu của địa chủ đã được quy định trong Thông tư số 1272-TC/HCP/P3 ngày
19-11-1958, nhưng nay hủy bỏ những thể thức đó và quy định lại như sau:
Đối với phiếu của địa chủ kháng
chiến, địa chủ thường, cũng thanh toán, nhưng chỉ thanh toán đến 500 đồng, đối
với số tiền còn lại, Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh, phải xét kỹ từng trường
hợp cụ thể để quyết định xem có nên thanh toán không, và nếu cho thanh toán thì
cũng chỉ nên thanh toán dần.
Đối với phiếu của địa chủ cường
hào gian ác, thì hủy bỏ, không thanh toán.
8. Phiếu của địa chủ ở vùng thượng
du:
Ở những miền núi, chưa cải cách
ruộng đất, Ủy ban hành chính tỉnh sẽ căn cứ vào thành phần của các chủ phiếu
phát hiện trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp kết hợp với cải cách dân chủ
mà cho thanh toán theo thể lệ đã quy định.
9. Phiếu tịch thu trong giảm tô,
cải cách ruộng đất hiện địa phương còn giữ:
Nếu là phiếu của nhân dân lao động,
thì trả lại cho chủ phiếu.
Nếu là phiếu của địa chủ thì sẽ
hủy bỏ, không thanh toán theo đúng chính sách sửa sai.
10. Phiếu của người đi Nam:
Tạm hoãn chưa thanh toán, chỉ giải
quyết khi chủ phiếu có mặt (Thông tư số 1272-TC/HCP/P3 ngày 19-11-1958).
11. Phiếu mua ở miền Nam,
đứng tên người khác (do gia đình hay bạn bè cho lúc tập kết ra Bắc) trước đây
đã khai, hiện nay chưa được thanh toán:
Nếu có giấy ủy quyền hay giấy tờ
chứng thực, thì thanh toán. Trường hợp không có giấy tờ nói trên, người có phiếu
xin thanh toán phải làm giấy cam đoan chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có sự gian
dối, giấy cam đoan này phải được Ban Liên lạc đồng hương tỉnh chứng thực, người
thay mặt Ban Liên lạc đồng hương để chứng nhận phải là một đồng chí trong Ban
thường trực hay một đồng chí phụ trách chính quyền cũ (Chủ tịch hay Phó Chủ tịch
tỉnh hoặc một đồng chí tỉnh ủy viên), chữ ký của người chứng nhận phải có xác
nhận của cơ quan hiện người chứng nhận đang công tác.
Nếu giấy cam đoan không có đủ chứng
nhận thì tạm hoãn, khi có đủ chứng nhận mới giải quyết.
B. TRƯỜNG HỢP
CHỈ CÓ BIÊN LAI, KHÔNG CÓ PHIẾU
Có nhiều loại biên lai: biên lai
mua phiếu, biên lai nhận phiếu để quy vốn ra thóc, biên lai nhận phiếu để thanh
toán hay để giữ hộ, v.v…
1. Biên lai mua phiếu:
Những biên lai mua phiếu hợp lệ
là những biên lai có ghi rõ ràng đầy đủ chi tiết không bị tẩy xóa sửa chữa, có
đánh số, đóng dấu của Ban phụ trách bán phiếu.
a) Biên lai mua phiếu ở miền Bắc:
Hội đồng nhân dân tỉnh có thể ủy
cho Ủy ban hành chính huyện và Hội đồng nhân dân xã điều tra, nếu xác nhận đúng
là khi mua phiếu, chỉ mới phát biên lai, chưa phát phiếu chính thức thì có thể
cho thanh toán, cần điều tra kỹ để tránh tình trạng phiếu chính thức đã lĩnh một
nơi rồi, nay lại trả theo biên lai một lần nữa.
Nếu xét trả được thì địa phương
sẽ căn cứ vào ngày tháng năm ghi trên biên lai để tính trả.
Đối với những biên lai mua chung
phiếu, chỉ ghi có một phần tiền, thì cần phải xuất trình phiếu, mới có thể
thanh toán được.
Nếu không tìm được phiếu, thì cần
điều tra thêm, khi có đủ căn cứ mới giải quyết.
b) Biên lai mua phiếu, cấp ở Nam
Bộ:
Hiện nay các biên lai đứng tên
người cầm phiếu đều đã được thanh toán xong theo thể thức quy định trong Thông
tư số 122-TC/HCP/P3 ngày 23-12-1958, chỉ còn những biên lai mua phiếu đứng tên
người khác (do gia đình hay bạn bè cho lúc tập kết) là chưa được thanh toán. Đối
với các biên lai đứng tên người khác này, cũng có thể thanh toán theo giấy cam
đoan của người có biên lai xin thanh toán, chịu hoàn toàn trách nhiệm, nếu xét
ra có sự gian lận. Giấy cam đoan phải do Ban Liên lạc đồng hương tỉnh chứng thực,
như đã nói ở điều 11.
Đối với những khoản tiền mà Ủy
ban kháng chiến hành chính Nam bộ đã nhận theo giấy biên lai chính thức do đồng
chí Phạm Văn Bạch ký, nếu xét các biên lai đó đúng là để sau này đổi lấy công
phiếu kháng chiến, nhưng chưa kịp đổi lấy phiếu, phiếu kháng chiến phát hành ở
Nam bộ. Trong trường hợp này, cần lấy các chứng nhận sau đây:
- Chứng nhận các biên lai đúng
là để sau này đổi lấy công phiếu kháng chiến.
- Chứng nhận đương sự có lý do
chính đáng chưa được đổi kịp biên lai lấy phiếu chính thức.
Cần phải một trong các ông sau
đây chứng nhận: Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh, Ủy
viên Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh phụ trách kinh tế tài chính hay Trưởng
ban kinh tế tài chính hiện nay tập kết ra Bắc, chữ ký và chức trách cũ của người
chứng nhận phải có xác nhận của cơ quan hiện đang công tác.
Nếu không biết địa chỉ hiện thời
của các cấp phụ trách, có thể hỏi Ban Liên lạc đồng hương.
2. Biên lai nhận phiếu đề quy vốn
ra thóc (chưa quy hay quy rồi, nhưng chưa trả lại phiếu):
- Biên lai nhận phiếu để thanh
toán mà chưa kịp thanh toán.
- Biên lai nhận phiếu để giữ hay
chuyển hộ, v.v… nay để phiếu thất lạt.
Đối với các loại biên lai trên,
thì cơ quan, cá nhân nhận phiếu có trách nhiệm tìm phiếu để trả lại cho người gửi
phiếu. Nếu không tìm ra được, thì cần điều tra thêm và chỉ khi có đủ căn cứ mới
giải quyết. Nếu phát hiện cá nhân tham ô thì phải bồi thường và thi hành kỷ luật.
C. TRƯỜNG HỢP
MẤT PHIẾU, CÓ CHỨNG NHẬN CỦA CƠ QUAN, CÁ NHÂN HAY CÓ BẰNG KHEN, CUỐNG PHIẾU, SỔ
VÀNG, V.V…
1. Trường hợp mất phiếu vì phiếu
chôn bị mủn, phiếu bị mối xông, phiếu bị cháy, phiếu để thất lạc, v.v…
Đối với các trường hợp trên, nói
chung, không thể thanh toán, mặc dầu các trường hợp đó có chứng nhận đã mua phiếu
do cơ quan hay cá nhân cấp, hay có căn cứ như tài liệu, sổ sách, cuống phiếu, bằng
khen, sổ vàng, v.v…
Sở dĩ không đặt vấn đề thanh
toán là vì có những khó khăn sau đây:
Khó khăn trong việc điều tra xem
có đúng đương sự đã mua phiếu hay không.
Việc mua phiếu đến nay đã hơn 10
năm, tài liệu hồ sơ về việc phát hành phiếu sưu tầm rất khó, có trường hợp có
thể xác minh được, có trường hợp không thể xác minh được. Ngoài ra, hầu hết, những
giấy chứng nhận cấp cho người mất phiếu đều không cụ thể, chỉ nói chung chung
có mua phiếu, nhưng không ghi rõ mua bao nhiêu phiếu, loại nào, số mấy, ở đâu,
ngày nào, tổng số bao nhiêu tiền.
Mặt khác, việc kiểm tra lại lời
khai đánh mất phiếu xem có đúng hay không đúng, cũng gặp khó khăn, vì có thể thực
tế đương sự có mua phiếu, nhưng mua bao nhiêu, đương sự đã đánh mất phiếu bao
giờ hay không đánh mất phiếu, đã lĩnh phiếu hay chưa cũng không ai biết, hay có
biết, cũng không thể biết rõ được.
Ngoài ra, theo sắc lệnh của
Chính phủ, loại công phiếu kháng chiến vô danh được lưu hành như giấy bạc, nên
bất cứ ai cầm phiếu vô danh cũng có thể lĩnh tiền được cả, do đó không thể kiểm
tra các trường hợp mất phiếu vô danh được.
Còn cuống phiếu, bằng khen, hay
sổ vàng cũng không thể dùng làm căn cứ để thanh toán các trường hợp mất phiếu
được, vì cuống phiếu, bằng khen hay sổ vàng, cũng như các giấy chứng nhận kể
trên, chỉ chứng minh có hay không mua phiếu, nhưng không chứng minh đã được trả
hay chưa được trả.
Trước đây, địa phương không những
cấp bằng khen cho người mua công phiếu kháng chiến loại lớn, mà còn cấp cả cho
những người có công trong việc vận động bán phiếu, do đó không thể căn cứ vào bằng
khen để thanh toán tiền công phiếu được.
Chủ trương trên áp dụng cho mọi
trường hợp mất phiếu, kể cả những trường hợp mất phiếu ở miền Nam.
2. Trường hợp phiếu bị mất, tịch
thu hay thiêu hủy trong giảm tô, cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức:
Chủ trương thanh toán công phiếu
kháng chiến, công trái quốc gia không tách rời chính sách sửa sai của Đảng và
Chính phủ được. Nếu thanh toán cho những người bị quy oan mất phiếu trong cải
cách ruộng đất, trong lúc những người khác bị quy oan mất nhiều tài sản không
được thanh toán, thì không hợp lý và trái với chủ trương chính sách.
Vì vậy, tất cả các trường hợp
trên, kể cả phiếu của người quy đúng hay quy oan, của nhân dân lao động hay của
địa chủ, mặc dầu có chứng nhận của các cấp chính quyền địa phương, của các đội
giảm tô, cải cách ruộng đất hay của cá nhân đều không đặt vấn đề thanh toán
mà chỉ giải quyết theo đúng chính sách sửa sai.
D. TRƯỜNG HỢP
KHAI CÓ MUA PHIẾU, NHƯNG KHÔNG CÓ PHIẾU HAY BIÊN LAI
Ở một vài vùng thượng du, nhân
dân khai có mua phiếu nhưng không có phiếu hay biên lai, thì nhất thiết không
thể thanh toán được.
III. CÁCH TIẾN
HÀNH THANH TOÁN
1. Phổ biến chủ trương:
- Kế hoạch trả và giải thích:
Rút kinh nghiệm đợt 1 và để kịp
thời tiến hành trả đợt 2, đề nghị các địa phương:
- Một mặt phổ biến chủ trương
sâu rộng để nhân dân được biết.
- Mặt khác, bố trí kế hoạch để
khi bắt đầu trả, nhân dân không phải đi lại chờ đợi (sắp xếp lực lượng cán bộ,
chuẩn bị tài liệu, sổ sách để tiện việc tra cứu, xác minh…).
Ngoài ra, trong đợt 2 này, có thể
có nhiều thắc mắc vì có những trường hợp không được trả. Vậy các địa phương cần
có kế hoạch giải thích trước cho nhân dân ngay từ xã, huyện, để nhân dân thông
cảm, chủ yếu là tránh để nhân dân đi lại đòi hỏi nơi này, nơi khác, vừa mất thì
giờ, vừa tốn kém tiền lộ phí (kế hoạch cụ thể như thế nào là do địa phương
nghiên cứu, căn cứ vào tình hình thực tế của từng địa phương).
2. Ứng tiền thanh toán:
Địa phương sẽ ứng tiền trả nhân
dân như thường lệ, rồi báo cáo để Bộ cấp kinh phí điều chỉnh.
3. Thời gian thanh toán:
Đợt 2 này sẽ kết thúc trong toàn
quốc vào cuối tháng 09 năm 1960. Khi phổ biến chủ trương, đề nghị các địa
phương lưu ý nhân dân về thời hạn này để tránh tình trạng kéo dài thời hạn như
trong đợt 1.
4. Báo cáo tổng kết:
Sau khi đã trả xong đợt 2, địa
phương cần làm ngay báo cáo tổng kết, theo đề cương dưới đây:
a) Phần số liệu:
Báo cáo số tiền đã trả từ ngày kết
thúc đợt 1 (01-07-1959) đến ngày kết thúc đợt 2 (30-09-1960).
Chú ý phân tích số tiền trả phiếu
hay biên lai phát hành ở miền Bắc, và phiếu hay biên lai phát hành ở miền Nam.
b) Phần tình hình:
Phần tình hình gồm các điểm sau
đây:
- Kế hoạch trả, ưu khuyết điểm,
kinh nghiệm.
- Ảnh hưởng trong nhân dân.
- Vấn đề tồn tại (nếu còn).
Trong đề cương trên, Bộ chỉ nêu
lên một số điểm chính để nhắc địa phương chú ý. Còn khi làm báo cáo thì tùy
tình hình từng nơi mà thêm bớt cho sinh động, không nhất thiết phải gò bó trong
khuôn khổ ấy.
Trong đợt 1, có một số địa
phương chưa thật chú ý làm báo cáo tổng kết (đến nay, cũng còn có địa phương
chưa làm, mặc dầu Bộ đã nhắc nhiều lần).
Vì vậy, về đợt 2 này, đề nghị
các địa phương chú ý hơn trong việc làm báo cáo, tránh tình trạng kéo dài như đợt
1, ảnh hưởng đến việc làm báo cáo chung cho toàn quốc.
Trên đây là hướng giải quyết một
số trường hợp tồn tại về công phiếu kháng chiến, công trái quốc gia phát hành ở
miền Bắc cũng như ở miền Nam
trước đây.
Trong khi tiến hành thanh toán nếu
còn phát hiện những trường hợp khác rõ ràng cụ thể, đề nghị địa phương nghiên cứu
giải quyết; nếu gặp mắc mứu khó khăn thì báo cáo để Bộ góp ý kiến giải quyết.
Yêu cầu các địa phương tiến hành
khẩn trương việc trả đợt 2 để có thể kết thúc gọn và tốt việc thanh toán công
phiếu kháng chiến và công trái quốc gia trong thời hạn đã quy định.
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|