Thông tư 03-TT/BNV-1977 hướng dẫn thi hành Điều lệ về phạt vi cảnh do Bộ Nội vụ ban hành

Số hiệu 03-TT/BNV
Ngày ban hành 21/06/1977
Ngày có hiệu lực 30/06/1977
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Nội vụ
Người ký Nguyễn Tài
Lĩnh vực Vi phạm hành chính

BỘ NỘI VỤ
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 03-TT/BNV

Hà Nội, ngày 21 tháng 06 năm 1977

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ VỀ PHẠT VI CẢNH

Hội đồng Chính phủ đã ra nghị định số 143-CP ngày 27-05-1977 ban hành Điều lệ về phạt vi cảnh;
Căn cứ điều 3 của nghị định nói trên và để thi hành Điều lệ về phạt vi cảnh, Bộ Nội vụ hướng dẫn một số điểm dưới đây ,

I. Ý NGHĨA CỦA VIỆC BAN HÀNH ĐIỀU LỆ VỀ PHẠT VI CẢNH

Từ trước đến nay Nhà nước ta đã ban hành nhiều luật lệ để quản lý xã hội, quản lý kinh tế v.v… Những luật lệ ấy đã góp phần quan trọng về việc giữ an ninh trật tự. Tuy nhiên, đến nay soát lại các luận lệ hiện có thì ta vẫn còn thiếu những quy định thích hợp để xử lý đối với những vi phạm nhỏ về trật tự an toàn xã hội xảy ra hàng ngày trong đời sống xã hội. Do đó việc xử lý đối với những người vi phạm này thiếu thống nhất và còn tùy tiện trong các lực lượng có trách nhiệm.

Nay Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ về phạt vi cảnh, quy định rõ những trường hợp gọi là phạm pháp vi cảnh, những nguyên tắc và hình thức xử lý, quyền hạn và thủ tục xử lý đối với những hành vi phạm pháp vi cảnh. Việc ban hành Điều lệ về phạt vi cảnh nhằm:

1. Hướng dẩn mọi công dân và mọi người trong xã hội có nghĩa vụ tự giác tôn trọng những quy tắc về trật tự an toàn xã hội;

2. Đặt cơ sở pháp lý để bảo đảm cho việc xử lý được đúng mức và thống nhất về căn bản trong các lực lượng có trách nhiệm, tránh tình trạng tùy tiện buông lỏng hoặc xử lý quá nặng đối với những trường hợp phạm pháp vi cảnh;

3. Góp phần đưa các mặt sinh hoạt xã hội và trật tự công cộng vào quy củ, nề nếp, xây dựng nếp sống văn minh và trật tự an toàn xã hội.

II. KHÁI NIỆM VỀ PHẠM PHÁP VI CẢNH

Cần nhận rõ khái niệm về phạm pháp vi cảnh đã được quy định ở điều 2 của bản điều lệ. Đặc trưng của loại phạm pháp này là những hành vi xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội mà có tính chất đơn giản, rõ ràng và hậu quả không nghiêm trọng, chưa đến mức xử phạt bằng các biện pháp hành chính khác.

Nói chung hành vi phạm pháp vi cảnh là những hành vi vi phạm luật lệ mà tính chất và mức độ ít nguy hiểm, thể hiện ở chỗ :

- Hành vi phạm pháp mang tính chất giản đơn, nghĩa là không có tổ chức, không có sự bố trí kế hoạch từ trước, không có thủ đoạn, mánh khóe gian dối, xảo trá, táo bạo…

- Hành vi phạm pháp đó được phát hiện rõ ràng, nghĩa là phần lớn những vụ phạm pháp này được nhân dân và các lực lượng có trách nhiệm phát hiện ngay tại chỗ, chứng cứ rõ ràng; hoặc có trường hợp phải điều tra thì việc điều tra đó cũng đơn giản mà vẫn có đầy đủ chứng cứ làm rõ được hành vi phạm pháp.

- Hậu quả chưa xảy ra, hoặc đã xảy ra nhưng không nghiêm trọng , nghĩa là không gây nên thiệt hại lớn về của công hoặc của tư, không gây tổn hại đến sinh mạng, v.v…

Chính vì tính chất của hành vi phạm pháp vi cảnh như vậy nên việc xử phạt không coi là án tích và không ghi vào tư pháp lý lịch (điều 9 của điều lệ).

Từ khái niệm nói trên, điều lệ đã cụ thể hóa thành 15 loại vi phạm pháp cảnh quy định ở chương II, từ điều 11 đến điều 25.

Chỉ 15 loại hình này mới coi là phạm pháp vi cảnh và bị xử lý theo những hình thức quy định trong điều lệ này.

Những hành vi tuy về hình thức có thể giống nhau, nhưng tính chất và mức độ nghiêm trọng hơn, nếu phạt vi cảnh sẽ không thích đáng thì phải xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ví dụ:

a) Điều 11, điểm 1 quy định : “ Đánh nhau hoặc xúi giục người khác gây đánh nhau”. Cần hiểu trường hợp đánh nhau mang tính chất làm rối trật tự công cộng ở một địa điểm nhỏ và trong một thời gian ngắn và không gây ra thương tích gì đáng kể cho người thì coi là phạm pháp vi cảnh. Nhưng nếu cố ý gây thương tích cho người khác như sứt đầu, vỡ trán, v.v…hoặc do vô ý mà gây thương nặng, thành tật cho người khác hoặc kéo bè đảng đông người đánh nhau liên tục ở địa bàn rộng lớn thì coi là tội phạm hình sự và truy tố theo điều 5 (điểm b) Sắc luật số 3 ngày 15-3-1976 của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.

b) Điều 14 điểm 6 quy định: “Tàng trữ, lưu hành những văn hóa phẩm đồi trụy như tranh ảnh khiêu dâm, sách báo, tiểu thuyết thuộc loại bị cấm”.

Hành vi này chỉ coi là phạm pháp vi cảnh, khi mà không có mục đích phản cách mạng và không có những tính chất nghiêm trọng. Nhưng nếu có mục đích chính trị rõ ràng nhằm tuyên truyền cho nếp sống trụy lạc nằm trong âm mưu diễn biến hòa bình của đế quốc Mỹ và các đế quốc khác thì cũng hành vi đó sẽ bị truy tố về tội tuyên truyền phản cách mạng theo điều 15, điểm 3, Pháp lệnh ngày 30-10-1967 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

c) Điều 23, điểm 1 quy định : “Trộm cắp của hợp tác xã hoặc của công dân một ít sản phẩm nông nghiệp, gia cầm, gia súc nhỏ, một ít đồ vật tiền bạc”. Đây là trường hợp mà ta thường gọi là trộm cắp vặt như buồng cau, trái chuối, con gà, con chó hoặc một vài cái quần áo, v.v… thủ đoạn giản đơn, thể hiện tính chất cơ hội. Còn nếu trộm cắp mang tính chất chuyên nghiệp hoặc có những thủ đoạn táo bạo như bẻ khóa. bẻ cửa, khoét gạch v.v… hoặc tài sản bị trộm cắp có giá trị lớn, thể hiện tính chất nghiêm trọng của hành vi trộm cắp thì phải truy tố về tội hình sự.

III. VẬN DỤNG ĐÚNG ĐẮN CÁC HÌNH THỨC XỬ PHẠT VI CẢNH

Từ điều 2 đến điều 8 của bản điều lệ đã quy định các hình thức xử phạt vi cảnh và những nguyên tắc xử lý.

Trong khi áp dụng các hình thức nguyên tắc xử lý, cần chú ý những điểm dưới đây:

a) Bản điều lệ quy định 4 hình thức xử phạt vi cảnh là: Cảnh báo, phạt tiền, phạt lao động công ích và phạt giam. Đặt ra 4 hình thức xử phạt này là tương ứng với hành vi phạm phát vi cảnh và phù hợp với tình hình thực tế xã hội hiện nay.

[...]