Thông báo 262/TB-VKSTC-V5 tình hình thực hiện công tác kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự những tháng đầu năm 2012 và vướng mắc trong quá trình thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự và Thông tư liên tịch 04/TTLT do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
Số hiệu | 262/TB-VKSTC-V5 |
Ngày ban hành | 15/10/2012 |
Ngày có hiệu lực | 15/10/2012 |
Loại văn bản | Thông báo |
Cơ quan ban hành | Viện kiểm sát nhân dân tối cao |
Người ký | Trần Đình Khánh |
Lĩnh vực | Thủ tục Tố tụng |
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 262/TB-VKSTC-V5 |
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2012 |
Tổng hợp kết quả công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự những tháng đầu năm 2012 của Viện kiểm sát các cấp, Vụ 5 Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông báo một tình hình triển khai thực hiện BLTTDS (sửa đổi) tại các Viện kiểm sát địa phương, như sau:
1. Về kết quả công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự
1.1. Về triển khai thực hiện BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011:
Viện kiểm sát các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức các hội nghị tập huấn quán triệt nội dung Hội nghị tập huấn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (tổ chức vào tháng 9, tháng 9 tại Lâm đồng và Quảng Ninh; xây dựng chương trình, kế hoạch công tác nhằm cụ thể hóa sự chỉ đạo, hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao triển khai thực hiện BLTTDS.
Công tác quản lý, điều hành của Viện kiểm sát các cấp tiếp tục đổi mới: Tăng cường kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ, kịp thời trả lời thỉnh thị, giải đáp vướng mắc cho Viện kiểm sát cấp dưới; phân công Kiểm sát viên, cán bộ kiểm sát bản án, quyết định; sổ sách thụ lý, giải quyết vụ việc đảm bảo theo quy định.
2.2. Về kết quả công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự
(Số liệu về kết quả công tác kiểm sát từ 1/12/2011 đến 31/5/2012)
Thực hiện BLTTDS (sửa đổi), quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát có sự thay đổi, tạo điều kiện thuận lợi trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự. Bước đầu, tuy còn nhiều khó khăn nhưng Viện kiểm sát các địa phương đã nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ.
Tổng số kiểm sát thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 148.587 vụ việc (có 140.915 vụ, 7.672 việc), tăng 29.240 vụ việc so với cùng kỳ năm 2011; Kiểm sát thụ lý 8.331 vụ, việc theo thủ tục phúc thẩm, tăng 1.031 vụ việc; Viện kiểm sát các tỉnh, thành phố kiểm sát thụ lý 317 vụ theo thủ tục giám đốc thẩm.
Qua số liệu trên cho thấy thụ lý kiểm sát theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm tăng nhiều so với cùng kỳ năm 2011; Kiểm sát viên tham gia 6.049 phiên tòa sơ thẩm, chiếm 40,3% (cùng kỳ năm 2011 và các năm trước khoảng 0,12%); tham gia 3.978 phiên tòa phúc thẩm, chiếm tỷ lệ 78,78% (cùng kỳ năm 2011, tham gia 572 phiên tòa, chiếm tỷ lệ 12,8%); tỷ lệ chấp nhận kháng nghị phúc thẩm đạt 89,4 % (tỷ lệ chấp nhận tăng 5,9%); kháng nghị giám đốc thẩm chấp nhận đạt 78%. Tỷ lệ án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm xét xử sửa, hủy còn chiếm tỷ lệ cao: Hủy chiếm 19% (cùng kỳ năm 2011, là 16,1%), sửa án chiếm 36,2% (cùng kỳ năm 2011, là 38,6%).
Viện kiểm sát các địa phương đã tích cực kiểm sát, phát hiện vi phạm và ban hành 727 kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm pháp luật (giảm 83 kiến nghị so với cùng kỳ năm 2011). Đã phát hiện nhiều bản án, quyết định có vi phạm và ban hành 706 kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; 116 kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; riêng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành 57 kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, ít hơn 20 kháng nghị so với cùng kỳ năm 2011.
Số kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát chiếm tỷ lệ bình quân là 13,1% so số vụ án bị cấp phúc thẩm hủy, sửa. Có nhiều Viện kiểm sát tỉnh, thành phố có kháng kháng nghị phúc thẩm chiếm tỷ lệ cao so với số bản án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm hủy, sửa, là: Viện kiểm sát tỉnh Bắc Giang là 24 vụ/32 vụ, tỷ lệ 75,4%; Quảng Ninh 15 vụ/20 vụ (75%); Đồng Nai là 32 vụ/94 vụ (34,1%); Tây Ninh là 39 vụ/104 vụ (37,5%); TP Hồ Chí Minh là 69 vụ/298 vụ (23,1%); TP Hà Nội là 41 vụ/120 vụ (34,1%); Viện kiểm sát tỉnh Long An là 40 vụ/157 vụ (25,5%) .
Viện kiểm sát các địa phương tích cực xây dựng các chuyên đề về kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; kịp thời thông báo rút kinh nghiệm đối với những vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm bị cấp phúc thẩm sửa, hủy. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp đã nghiên cứu kỹ hồ sơ, thực hiện việc kiểm sát tuân theo pháp luật tại phiên tòa và phát biểu quan điểm theo quy định của BLTTDS và hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, bước đầu, khẳng định vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự.
Tuy nhiên, trong công tác kiểm sát, Viện kiểm sát các cấp gặp khó khăn, nhất là thời điểm liên ngành chưa ban hành Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT ngày 1/8/2012 giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao; các văn bản hướng dẫn thực hiện BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011, như Thông tư liên tịch, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chưa ban hành kịp thời; nhiều Viện kiểm sát địa phương thiếu biên chế cán bộ, Kiểm sát viên; kỹ năng, kinh nghiệm công tác kiểm sát của một bộ phận cán bộ, Kiểm sát viên còn hạn chế. Mặt khác, Kiểm sát viên phải tập trung nghiên cứu hồ sơ tham gia phiên tòa, phiên họp nên chưa chú trọng đúng mức trong việc kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc dân sự; công tác phối hợp trong kiểm sát bản án, quyết định chưa chặt chẽ; nên việc phát hiện vi phạm và ban hành kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm của nhiều Viện kiểm sát chưa đạt chỉ tiêu quy định.
2. Một số vướng mắc và kiến nghị trong thực hiện BLTTDS (sửa đổi)
2.1. Về kiểm sát việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho đương sự theo quy định tại Điều 169, Điều 170 BLTTDS quy định: trong thời hạn 03 ngày làm việc (ba ngày), kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện. Viện kiểm sát địa phương cho rằng thực tế Tòa án chỉ gửi cho Viện kiểm sát thông báo trả lại đơn khởi kiện với nội dung ngắn gọn, chung chung. Muốn xác định việc trả lại đơn khởi kiện có đúng pháp luật hay không, Viện kiểm sát có thể phải mời đương sự lên để lấy lời khai, kiểm tra chứng cứ, tài liệu; vì vậy, thời hạn 03 ngày để có kiện nghị là không thể thực hiện được.
2.2. Điều 165 BLTTDS quy định: Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Quy định như trên có một số trường hợp không thực hiện được. Ví dụ, ông A khởi kiện ông B về yêu cầu chia thừ kế nhà ở; theo đó, kèm theo đơn khởi kiện, ông A phải có bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu căn nhà đang tranh chấp. Nhưng ông B lại đang quản lý bản chính các giấy tờ về sở hữu căn nhà nên ông A không thể cung cấp cho Tòa án được. Đề nghị Viện kiểm sát tối cao hướng dẫn cụ thể vấn đề này.
2.3. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án thuộc trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa sơ thẩm, theo Điều 21 BLTTDS, nhưng không thông báo để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Những trường hợp này, sau khi xét xử, Viện kiểm sát mới phát hiện được Tòa án vi phạm pháp luật tố tụng, nhưng về đường lối (nội dung) Tòa án giải quyết đúng pháp luật, Viện kiểm sát có nên kháng nghị hủy bản án sơ thẩm ?.
Một số trường hợp Tòa án lấy lời khai của đương sự, nhân chứng…Nhưng cho rằng đương sự, nhân chứng do không biết chữ (chủ yếu là các vụ án ly hôn) nên Thư ký phải ghi hộ lời khai; đây không phải là hoạt động thu thập chứng cứ, vì vậy không thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm theo Điêu 21 BLTTDS. Cần có sự nhận thức thống nhất về việc thu thập chứng cứ của Tòa án.
2.4. Qua thực tiến xét xử một số vụ án xin lý hôn, có tranh chấp quyền sử dụng đất. Trường hợp này, Viện kiểm sát có tham gia phiên tòa sơ thẩm theo Điều 21 BLTTDS ?.
2.5. Theo quy định tại Điều 195 BLTTDS thì trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có tên Kiểm sát viên (kể cả Kiểm sát viên dự khuyết, nếu có) tham gia phiên tòa; khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 04/ TTLT: Trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa, phiên họp thì trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm thông báo thụ lý vụ việc dân sự theo Điều 174, 257, 331 BLTTDS, Viện kiểm sát phải gửi cho Tòa án văn bản phân công Kiểm sát viên…Quy định như trên là không khả thi, khó thực hiện. Bởi lẽ, chỉ trên cơ sở văn bản thông báo thụ lý của Tòa án thì Viện kiểm sát chưa thể xác định được vụ án nào Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa theo quy định của Điều 21 BLTTDS.
2.6. Khi áp dụng các quy định mới ngoài các trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa (Điều 85 BLTTDS), thực tiễn có nhiều trường hợp phát sinh chưa được hướng dẫn cụ thể, như: Trường hợp nào là tranh chấp đất đai bắt buộc phải qua hòa giải ở cơ sơ; trường hợp Tòa án xác minh địa chỉ của đương sự, tình trạng hôn nhân, các trương hợp này Tòa án, Viện kiểm sát đều lúng túng về tham gia phiên tòa của Viện kiểm sát.
2.7. Trường hợp Luật sư tham gia và được Tòa án chấp nhận là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; Luật sư có quyền nghiên cứu hồ sơ, sao chụp tài liệu…Nhưng hồ sơ đã chuyển cho Viện kiểm sát nghiên cứu để tham gia phiên tòa và Luật sư yêu cầu được nghiên cứu hồ sơ. Trường hợp này, Viện kiểm sát giải quyết theo quy định nào ?.
2.8. Tại Điều 94 BLTTDS quy định các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát trong thời hạn 15 ngày; trường hợp không cung cấp đầy đủ, kịp thời…thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong thực tế, nếu cơ quan, đơn vị không cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ thì Tòa án không thể đưa vụ án ra giải quyết và phải tạm đình chỉ với lý do chờ kết quả phúc đáp của cơ quan, tổ chức. Vạy, trường hợp này có xử lý được cơ quan, tổ chức hay không ? Nếu xử lý theo theo quy định pháp luật nào ?.
2.9. Theo quy định của BLTTDS, tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên chỉ được phát biểu về tố tụng, vậy, Kiểm sát viên có quyền hỏi để làm rõ nội dung của vụ kiện không ?; những vụ án có vi phạm tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm mà Viện kiểm sát không tham gia phiên tòa hoặc có tham gia nhưng không phát hiện được vi phạm thì Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm có được phát biểu ý kiến về những vi phạm đó hay không ?.
2.10. Điều 269 BLTTDS quy định: Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa phúc thẩm và bị đơn đồng ý nhưng vụ án lại bị Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; Trường hợp này, kháng nghị của Viện kiểm sát được giải quyết thế nào ?.