Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Thể lệ số 01-UB/TL về việc kiểm kê và đánh giá tài sản của xí nghiệp quốc doanh do Phủ Thủ Tướng ban hành

Số hiệu 01-UB/TL
Ngày ban hành 01/06/1957
Ngày có hiệu lực 16/06/1957
Loại văn bản Văn bản khác
Cơ quan ban hành Phủ Thủ tướng
Người ký Bùi Công Trừng
Lĩnh vực Doanh nghiệp

PHỦ THỦ TƯỚNG
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 01-UB/TL

Hà Nội, ngày 01 tháng 06 năm 1957 

 

THỂ LỆ

VỀ KIỂM KÊ VÀ ĐÁNH GIÁ TÀI SẢN CỦA XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH

Điều 1. – Căn cứ theo "quyết định về kiểm kê tài sản và xét định vốn của xí nghiệp quốc doanh" của Thủ tướng Chính phủ số 141-TTg ngày 08-04-1957, nay ban hành thể lệ này nhằm thiết thực nắm tình hình tài sản ở các xí nghiệp quốc doanh, để tính toán và xét định đúng đắn vốn cố định và vốn lưu động của xí nghiệp.

Điều 2. – Đối với tài sản thực có tính tới khi kiểm kê đánh giá, xí nghiệp quốc doanh trong toàn quốc đều phải tiến hành kiểm kê toàn bộ, và đều phải đánh giá lại bằng tiền Ngân hàng quốc gia theo như quy định trong bản thể lệ này.

a) Nếu toàn bộ tài sản của các xí nghiệp quốc doanh thật đã dùng và rõ ràng, thì chỉ tiến hành soát lại. Trường hợp thấy tài sản của các xí nghiệp quốc doanh đó vẫn không đúng, thì phải kiểm kê và chỉnh lý lại.

b) Nếu giá tài sản trên sổ cũ và tiêu chuẩn đánh giá tài sản của các xí nghiệp quốc doanh trước đây đã phù hợp với nguyên tắc quy định trong bản thể lệ này, thì chỉ tiến hành soát lại. Trường hợp thấy phần lớn hay một phần giá tài sản trên sổ cũ và tiêu chuẩn đánh giá tài sản của xí nghiệp không phù hợp với nguyên tắc quy định trong bản thể lệ này, thì phải đánh giá lại toàn bộ hoặc một phần tài sản đó.

Điều 3. – Tài sản thực có nói trên gồm những tài sản trên sổ sách và tất cả những tài sản không có trên sổ sách của đơn vị xí nghiệp.

Những công trình kiến thiết cơ bản và máy móc vật liệu của công trình đó, thuộc niên độ 1957 (kể cả những công trình chưa làm xong của niên độ trước được chuẩn y ghi làm công trình kiến thiết cơ bản của niên độ 1957) thì phải phân biệt rõ ràng với tài sản cố định và tài sản lưu động hiện có của xí nghiệp, và không phải kiểm kê đánh giá. Những công trình đã làm xong thuộc năm trước, dù có lập xong quyết toán hay chưa, đều phải đánh giá lại và ghi vào tài sản thực có. Những công trình thuộc năm 1957 đã làm xong và đã chuyển vào sản xuất trước khi kiểm kê, đều phải ghi vào tài sản thực có.

Điều 4. – Nguyên tắc xác định tiêu chuẩn và phạm vi phân biệt tài sản cố định với tài sản lưu động của xí nghiệp quốc doanh trong toàn quốc quy định như sau:

a) Trường hợp thuộc về tài sản cố định:

Nhà cửa, vật kiến trúc, thiết bị động lực, thiết bị truyền dẫn dùng cho sản xuất, máy móc thiết bị, công cụ sản xuất và những khí cụ, công cụ vận chuyển, đồ dùng trong nhà, tài sản cố định dự trữ cho sản xuất, và tiền đầu tư về đất dùng vào sản xuất, tài sản cố định dùng cho nông nghiệp và nghề phụ, tài sản cố định đúng vào việc tiêu thụ và cung cấp, nhà ở và vật kiến trúc phụ thuộc, tài sản cố định dùng cho công tác văn hóa, dùng cho công tác y tế bảo vệ sức khỏe (xem văn kiện phụ).

b) Trường hợp thuộc về tài sản lưu động:

Nguyên liệu và vật liệu chủ yếu, bán thành phẩm mua vào, vật liệu phụ, nhiên liệu, nhiên liệu, sản phẩm đang chế tạo, thành phẩm, đồ dự trữ dùng vào việc sửa chữa linh tinh, đồ bao bì, vật rẻ tiền mau hỏng, khoản trả trước, khoản nợ phải thu, tiền mặt tồn quỹ, v.v...

c) Trường hợp sau đây phải liệt vào tài sản lưu động:

- Vật dụng mà thời gian sử dụng dưới một năm và những thứ dễ vỡ (như đồ dùng bằng thủy tinh) thì mặc dù giá trị là bao nhiêu, đều liệt vào tài sản lưu động.

- Vật dụng mà thời gian sử dụng trên một năm nhưng giá trị đơn vị dưới 15 vạn đồng Ngân hàng thì liệt vào tài sản lưu động. Tùy theo thời hạn sử dụng, những vật dụng này sẽ phân bổ vào giá thành làm nhiều lần, và lấy tiền đã phân bổ được để mua thứ mới.

(Các Bộ chủ quản xí nghiệp có thể căn cứ vào tình hình cụ thể của xí nghiệp để đặt các tiêu chuẩn phân biệt tài sản cố định và vật rẻ tiền mau hỏng cho Bộ mình, và gửi kèm tài liệu có ghi các loại, đơn vị và giá vật rẻ tiền mau hỏng, cho Ủy ban Kiểm kê toàn quốc xét).

Điều 5. – Các xí nghiệp quốc doanh trong toàn quốc đánh giá tài sản cố định phải lấy "giá hoàn toàn tính lại" của niên độ 1957 làm tiêu chuẩn. Giá hoàn toàn tính lại là giá thành tính lại để mua sắm hay xây dựng tài sản đó mới nguyên trong điều kiện sáu tháng đầu niên độ 1957, gồm giá mua, tiền thuế, hoa hồng và tạp chí vận chuyển v.v...

a) Nếu là tài sản cố định kiến trúc thì lấy phí tổn kiến trúc trong điều kiện hiện nay làm giá thành tính lại, giá đó gồm phí tổn thiết kế, phí tổn công tác chuẩn bị kiến trúc (như phí tổn xây dựng nhà ở của công nhân xây lắp, đường goòng tạm thời v.v... đã trừ tiền bán những thứ đó sau khi làm xong công trình), giá toàn bộ công trình kiến trúc, thiết bị đi mua và khoản chi về sửa sang những thiếu sót cá biệt khi công trình đã làm xong.

b) Nếu là tài sản cố định lắp đặt thì lấy phí tổn đi mua, phí tổn lắp đặt máy trong điều kiện 06 tháng đầu niên độ 1957, làm giá thành tính lại, gồm giá mua, thuế, hoa hồng, phí tổn kiểm nghiệm, phí tổn vận chuyển và phí tổn lắp đặt máy.

c) Các khoản chi về sửa chữa lớn tài sản cố định sẽ lấy ở khoản khấu hao sửa chữa lớn để bù, không được tính vào giá trên sổ làm tăng tài sản cố định.

d) Tài sản cố định dùng hỏng hoặc bị hư hỏng không dùng được nữa thì ước tính theo giá có thể bán được.

Điều 6. – Để tính giá và khấu hao về tài sản cố định được chính xác, đồng thời để xây dựng và quán triệt chế độ trách nhiệm đối với tài sản cố định, đơn vị xí nghiệp chủ yếu là phải căn cứ vào trình độ mới hay cũ, khả năng và tình hình sử dụng của tài sản cố định để nhận định lại số năm sử dụng (nếu tính theo tấn / cây số thì phải nhận định lại số lần / cây số sử dụng).

a) Nhận định số năm thực tế còn có thể sử dụng được, và căn cứ theo trình độ thực tế chưa hao mòn của tài sản, tức tỷ lệ thực tế chưa khấu hao (tỷ lệ phần trăm) để xác định toàn bộ số năm có thể sử dụng được; toàn bộ số năm có thể sử dụng được, trừ số năm còn có thể sử dụng được, tức là số năm đã sử dụng.

b) Để nhận định số năm sử dụng máy móc, đối với máy móc về luyện kim, hầm mỏ, phát điện và các máy dệt, làm giấy v.v... có tính chất liên tục, thì lấy 24 giờ làm việc trong 1 ngày đêm để làm tiêu chuẩn. Đối với máy móc các ngành xí nghiệp khác thì sẽ lấy một số giờ làm việc trong 1 ngày đêm để làm tiêu chuẩn và do Bộ chủ quản xí nghiệp quy định thống nhất gửi cho Ủy ban Kiểm kê toàn quốc xét định.

Điều 7. – Những tài sản cố định bị phá hoại nặng vì chiến tranh hay vì nguyên nhân đặc biệt khác, nhưng vẫn còn đúng và sản xuất được, trong khi chưa được Chính phủ cấp phát để sửa chữa, thì có thể tạm thời đánh giá theo giá còn lại, sau khi đem giá hoàn thành tính lại trừ vào số bị hư hỏng. Số bị hư hỏng là tổng số giá của phần bị hư hỏng (không phải phần khấu hao hao mòn). Khi tính, trước hết phải căn cứ vào trình độ hư hỏng (tỷ lệ phần trăm) của cán bộ phận tài sản để tìm ra tỷ lệ hư hỏng chung, rồi nhân với giá hoàn toàn tính lại.

Điều 8. – Về việc đánh giá đất thì theo như quy định sau đây:

a) Trừ những xí nghiệp kinh doanh đặc biệt có quy định riêng ra, những đất như hầm mỏ, rừng rú, hồ ao, ruộng muối, ruộng nông nghiệp, bãi chăn nuôi, đường sắt, đường bộ của xí nghiệp quốc doanh, nếu đầu tư mua sau khi tiếp nhận hoặc đã làm thủ tục tài vụ để đầu tư thì giá đất là số đầu tư thực tế, hoặc số tiền ghi ở trên sổ cũ. Còn những thứ đất khác thì tạm thời không danh giá, nhưng những công trình trên mặt đất này thì phải đánh giá để liệt vào tài sản "vật kiến trúc".

[...]