PHỦ
THỦ TƯỚNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01-UB/TL
|
Hà
Nội, ngày 01 tháng 06 năm 1957
|
THỂ LỆ
VỀ KIỂM KÊ VÀ ĐÁNH GIÁ TÀI SẢN CỦA XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH
Điều 1.
– Căn cứ theo "quyết định về kiểm kê tài sản và xét định vốn của xí nghiệp
quốc doanh" của Thủ tướng Chính phủ số 141-TTg ngày 08-04-1957, nay ban
hành thể lệ này nhằm thiết thực nắm tình hình tài sản ở các xí nghiệp quốc
doanh, để tính toán và xét định đúng đắn vốn cố định và vốn lưu động của xí
nghiệp.
Điều 2.
– Đối với tài sản thực có tính tới khi kiểm kê đánh giá, xí nghiệp quốc doanh
trong toàn quốc đều phải tiến hành kiểm kê toàn bộ, và đều phải đánh giá lại bằng
tiền Ngân hàng quốc gia theo như quy định trong bản thể lệ này.
a) Nếu toàn bộ tài sản của các
xí nghiệp quốc doanh thật đã dùng và rõ ràng, thì chỉ tiến hành soát lại. Trường
hợp thấy tài sản của các xí nghiệp quốc doanh đó vẫn không đúng, thì phải kiểm
kê và chỉnh lý lại.
b) Nếu giá tài sản trên sổ cũ và
tiêu chuẩn đánh giá tài sản của các xí nghiệp quốc doanh trước đây đã phù hợp với
nguyên tắc quy định trong bản thể lệ này, thì chỉ tiến hành soát lại. Trường hợp
thấy phần lớn hay một phần giá tài sản trên sổ cũ và tiêu chuẩn đánh giá tài sản
của xí nghiệp không phù hợp với nguyên tắc quy định trong bản thể lệ này, thì
phải đánh giá lại toàn bộ hoặc một phần tài sản đó.
Điều 3.
– Tài sản thực có nói trên gồm những tài sản trên sổ sách và tất cả những tài sản
không có trên sổ sách của đơn vị xí nghiệp.
Những công trình kiến thiết cơ bản
và máy móc vật liệu của công trình đó, thuộc niên độ 1957 (kể cả những công
trình chưa làm xong của niên độ trước được chuẩn y ghi làm công trình kiến thiết
cơ bản của niên độ 1957) thì phải phân biệt rõ ràng với tài sản cố định và tài
sản lưu động hiện có của xí nghiệp, và không phải kiểm kê đánh giá. Những công
trình đã làm xong thuộc năm trước, dù có lập xong quyết toán hay chưa, đều phải
đánh giá lại và ghi vào tài sản thực có. Những công trình thuộc năm 1957 đã làm
xong và đã chuyển vào sản xuất trước khi kiểm kê, đều phải ghi vào tài sản thực
có.
Điều 4.
– Nguyên tắc xác định tiêu chuẩn và phạm vi phân biệt tài sản cố định với tài sản
lưu động của xí nghiệp quốc doanh trong toàn quốc quy định như sau:
a) Trường hợp thuộc về tài sản cố
định:
Nhà cửa, vật kiến trúc, thiết bị
động lực, thiết bị truyền dẫn dùng cho sản xuất, máy móc thiết bị, công cụ sản
xuất và những khí cụ, công cụ vận chuyển, đồ dùng trong nhà, tài sản cố định dự
trữ cho sản xuất, và tiền đầu tư về đất dùng vào sản xuất, tài sản cố định dùng
cho nông nghiệp và nghề phụ, tài sản cố định đúng vào việc tiêu thụ và cung cấp,
nhà ở và vật kiến trúc phụ thuộc, tài sản cố định dùng cho công tác văn hóa,
dùng cho công tác y tế bảo vệ sức khỏe (xem văn kiện phụ).
b) Trường hợp thuộc về tài sản
lưu động:
Nguyên liệu và vật liệu chủ yếu,
bán thành phẩm mua vào, vật liệu phụ, nhiên liệu, nhiên liệu, sản phẩm đang chế
tạo, thành phẩm, đồ dự trữ dùng vào việc sửa chữa linh tinh, đồ bao bì, vật rẻ tiền
mau hỏng, khoản trả trước, khoản nợ phải thu, tiền mặt tồn quỹ, v.v...
c) Trường hợp sau đây phải liệt
vào tài sản lưu động:
- Vật dụng mà thời gian sử dụng
dưới một năm và những thứ dễ vỡ (như đồ dùng bằng thủy tinh) thì mặc dù giá trị
là bao nhiêu, đều liệt vào tài sản lưu động.
- Vật dụng mà thời gian sử dụng
trên một năm nhưng giá trị đơn vị dưới 15 vạn đồng Ngân hàng thì liệt vào tài sản
lưu động. Tùy theo thời hạn sử dụng, những vật dụng này sẽ phân bổ vào giá
thành làm nhiều lần, và lấy tiền đã phân bổ được để mua thứ mới.
(Các Bộ chủ quản xí nghiệp có thể
căn cứ vào tình hình cụ thể của xí nghiệp để đặt các tiêu chuẩn phân biệt tài sản
cố định và vật rẻ tiền mau hỏng cho Bộ mình, và gửi kèm tài liệu có ghi các loại,
đơn vị và giá vật rẻ tiền mau hỏng, cho Ủy ban Kiểm kê toàn quốc xét).
Điều 5.
– Các xí nghiệp quốc doanh trong toàn quốc đánh giá tài sản cố định phải lấy
"giá hoàn toàn tính lại" của niên độ 1957 làm tiêu chuẩn. Giá hoàn
toàn tính lại là giá thành tính lại để mua sắm hay xây dựng tài sản đó mới
nguyên trong điều kiện sáu tháng đầu niên độ 1957, gồm giá mua, tiền thuế, hoa
hồng và tạp chí vận chuyển v.v...
a) Nếu là tài sản cố định kiến
trúc thì lấy phí tổn kiến trúc trong điều kiện hiện nay làm giá thành tính lại,
giá đó gồm phí tổn thiết kế, phí tổn công tác chuẩn bị kiến trúc (như phí tổn
xây dựng nhà ở của công nhân xây lắp, đường goòng tạm thời v.v... đã trừ tiền
bán những thứ đó sau khi làm xong công trình), giá toàn bộ công trình kiến
trúc, thiết bị đi mua và khoản chi về sửa sang những thiếu sót cá biệt khi công
trình đã làm xong.
b) Nếu là tài sản cố định lắp đặt
thì lấy phí tổn đi mua, phí tổn lắp đặt máy trong điều kiện 06 tháng đầu niên độ
1957, làm giá thành tính lại, gồm giá mua, thuế, hoa hồng, phí tổn kiểm nghiệm,
phí tổn vận chuyển và phí tổn lắp đặt máy.
c) Các khoản chi về sửa chữa lớn
tài sản cố định sẽ lấy ở khoản khấu hao sửa chữa lớn để bù, không được tính vào
giá trên sổ làm tăng tài sản cố định.
d) Tài sản cố định dùng hỏng hoặc
bị hư hỏng không dùng được nữa thì ước tính theo giá có thể bán được.
Điều 6.
– Để tính giá và khấu hao về tài sản cố định được chính xác, đồng thời để xây dựng
và quán triệt chế độ trách nhiệm đối với tài sản cố định, đơn vị xí nghiệp chủ
yếu là phải căn cứ vào trình độ mới hay cũ, khả năng và tình hình sử dụng của
tài sản cố định để nhận định lại số năm sử dụng (nếu tính theo tấn / cây số thì
phải nhận định lại số lần / cây số sử dụng).
a) Nhận định số năm thực tế còn
có thể sử dụng được, và căn cứ theo trình độ thực tế chưa hao mòn của tài sản,
tức tỷ lệ thực tế chưa khấu hao (tỷ lệ phần trăm) để xác định toàn bộ số năm có
thể sử dụng được; toàn bộ số năm có thể sử dụng được, trừ số năm còn có thể sử
dụng được, tức là số năm đã sử dụng.
b) Để nhận định số năm sử dụng
máy móc, đối với máy móc về luyện kim, hầm mỏ, phát điện và các máy dệt, làm giấy
v.v... có tính chất liên tục, thì lấy 24 giờ làm việc trong 1 ngày đêm để làm
tiêu chuẩn. Đối với máy móc các ngành xí nghiệp khác thì sẽ lấy một số giờ làm
việc trong 1 ngày đêm để làm tiêu chuẩn và do Bộ chủ quản xí nghiệp quy định thống
nhất gửi cho Ủy ban Kiểm kê toàn quốc xét định.
Điều 7.
– Những tài sản cố định bị phá hoại nặng vì chiến tranh hay vì nguyên nhân đặc
biệt khác, nhưng vẫn còn đúng và sản xuất được, trong khi chưa được Chính phủ cấp
phát để sửa chữa, thì có thể tạm thời đánh giá theo giá còn lại, sau khi đem
giá hoàn thành tính lại trừ vào số bị hư hỏng. Số bị hư hỏng là tổng số giá của
phần bị hư hỏng (không phải phần khấu hao hao mòn). Khi tính, trước hết phải
căn cứ vào trình độ hư hỏng (tỷ lệ phần trăm) của cán bộ phận tài sản để tìm ra
tỷ lệ hư hỏng chung, rồi nhân với giá hoàn toàn tính lại.
Điều 8.
– Về việc đánh giá đất thì theo như quy định sau đây:
a) Trừ những xí nghiệp kinh
doanh đặc biệt có quy định riêng ra, những đất như hầm mỏ, rừng rú, hồ ao, ruộng
muối, ruộng nông nghiệp, bãi chăn nuôi, đường sắt, đường bộ của xí nghiệp quốc
doanh, nếu đầu tư mua sau khi tiếp nhận hoặc đã làm thủ tục tài vụ để đầu tư
thì giá đất là số đầu tư thực tế, hoặc số tiền ghi ở trên sổ cũ. Còn những thứ
đất khác thì tạm thời không danh giá, nhưng những công trình trên mặt đất này
thì phải đánh giá để liệt vào tài sản "vật kiến trúc".
b) Nền nhà và đất phụ thuộc nền
nhà, nếu đầu tư mua sau khi Chính phủ tiếp tục quản hoặc đã có đánh giá ghi vào
sổ rồi, thì lấy con số ghi trên sổ cũ làm giá đất, nếu chưa đánh giá thì đều phải
đánh giá: tiêu chuẩn đánh giá sẽ lấy giá đất dự định của cơ quan Địa chính địa
phương làm tiêu chuẩn (nếu không có cơ quan Địa chính thì do Ủy ban Hành chính
tỉnh định).
c) Đất không trích khấu hao,
nhưng đơn vị xí nghiệp phải ghi riêng vào hồ sơ theo dõi toàn bộ số đất và tình
hình sử dụng, đồng thời phải ghi vào sổ gửi lên trên.
Điều 9.
– Trường hợp tài sản cố định như nhà, đất, vật kiến trúc, chưa xác định quyền sở
hữu, thì các đơn vị xí nghiệp có liên quan sẽ thương lượng để giải quyết; xí
nghiệp được quyền sở hữu tài sản thì phải đánh giá để xét định vốn. Nếu trước
khi kiểm kê đánh giá, khó xác định quyền sở hữu tài sản, thì do đơn vị xí nghiệp
đã sử dụng tạm thời đánh giá, coi là tài sản giữ hộ chưa định quyền sở hửu, đợi
sau khi xác định quyền sỡ hữu, sẽ giải quyết chính thức.
Điều 10.
– Việc đánh giá tài sản lưu động của xí nghiệp quốc doanh toàn quốc, cũng phải
lấy giá thành tính lại của niên độ 1957 làm tiêu chuẩn, tức là gồm giá hiện
nay, tiền thuế, tiền hoa hồng, tạp chí mua sắm, vận chuyển...
Nguyên tắc đánh giá như sau:
a) Nguyên liệu, vật liệu, vật liệu
phụ, nhiêu liệu v.v... đánh giá theo giá thành tính lại.
b) Sản phẩm tự chế (tức là thành
phẩm và bán thành phẩm tự chế) đánh giá theo giá thành thực tế. Hàng hóa và bán
thành phẩm mua vào đánh giá theo giá thành tính lại.
c) Sản phẩm đang chế tạo đánh
giá theo giá thành thực tế hoặc theo tỷ lệ sản phẩm đang chế tạo so với giá
thành sản phẩm.
d) Khoản nợ phải thu, khoản trả
trước, v.v... sẽ tính theo số kết dư ghi trong sổ.
e) Hàng hỏng, vật liệu hỏng đánh
giá theo giá ước tính có thể bán ra được.
Điều 11.
– Chứng khoán có thời giá, nếu có thời giá, thì ghi theo thời giá. Nếu không có
thời giá thì tùy theo trường hợp cụ thể để đánh giá.
Điều 12.
– Trong công tác kiểm kê đánh giá của xí nghiệp quốc doanh trong toàn quốc,
tiêu chuẩn đánh giá các tài sản cố định và tài sản lưu động (ngoài những sản phẩm
tự chế và sản phẩm đang chế tạo tạm ghi theo giá thành thực tế ra) sẽ do các Bộ
chủ quản xí nghiệp căn cứ vào tình hình thực tế, và kết hợp với những biện pháp
dưới đây mà tổ chức những nhân viên kỹ thuật, tài vụ và những nhân viên am hiểu
tình hình, để quy định:
a) Hoặc theo giá chỉ đạo của Nhà
nước, giá hợp đồng Mậu dịch hoặc những tài liệu về giá thị trường trong và
ngoài nước.
b) Hoặc theo giá bán hoặc giá
xây dựng của xí nghiệp quốc doanh.
c) Hoặc theo giá thị trường ở địa
phương hoặc ở vùng lân cận.
d) Hoặc theo tỷ giá của những
tài sản cùng loại theo quy cách hoặc nhãn hiệu khác nhau.
e) Hoặc nếu có giá trị tài sản
trên sổ cũ thì theo giá đó nhân với chỉ số giá cả để ghi.
Điều 13.
– Các Bộ chủ quản xí nghiệp phải định tiêu chuẩn giá thống nhất cho máy móc,
thiết bị chủ yếu để gửi cho Ủy ban Kiểm kê toàn quốc xét định. Khi đánh giá tài
sản cố định và tài sản lưu động khác phải tham khảo tiêu chuẩn giá cả của các
xí nghiệp trong toàn quốc, để trành tình trạng đánh giá quá cao hay quá thấp.
Điều 14.
– Đối với các khoản tài sản nợ, xí nghiệp quốc doanh cũng cần phải lần lượt chỉnh
lý, báo cáo lên trên.
Điều 15.
– Sau khi đánh giá lại tài sản của xí nghiệp, nếu giữa giá đánh lại với giá
trên sổ cũ có số chênh lệch, hụt đi hoặc dôi ra, thì phải ghi riêng số chênh lệch
đó vào từng tài khoản "tài sản có", tài khoản "tổng số đã khấu hảo"
và tài khoản "chênh lệch về kiểm kê và đánh giá" để điều chỉnh. Sau
khi đã được Ủy ban Kiểm kê toàn quốc duyệt, sẽ kết chuyển vào "vốn của Nhà
nước".
Điều 16.
– Xí nghiệp quốc doanh toàn quốc phải làm bản kê khai theo con số thực có như mẫu
bảng đã quy định về toàn bộ tài sản có và tài sản nợ, có chữ ký của phụ trách
kho, phụ trách kế toán, giám đốc xí nghiệp, rồi do Ủy ban Kiểm tra xí nghiệp gửi
theo từng cấp lên Ủy ban Kiểm kê toàn quốc, qua cấp nào Ủy ban Kiểm kê cấp đó
phải thẩm duyệt, tổng hợp và ký tên rồi mới gửi lên cấp trên.
Điều 17.
– Các Bộ chủ quản xí nghiệp phải căn cứ vào quy định của bản thệ lệ này, kết hợp
với tình hình thực tế của xí nghiệp do mình phụ trách, để thống nhất định ra thể
lệ bổ sung thi hành cụ thể, và gửi lên Ủy ban Kiểm kê toàn quốc làm hồ sơ theo
dõi.
|
T.L.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
CHỦ NHIỆM ỦY BAN KIỂM
KÊ TOÀN QUỐC
Bùi Công Trừng
|