UỶ
BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
*******
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số
: 61/2006/QĐ-UBND
|
Pleiku,
ngày 08 tháng 8 năm 2006
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN
HÀNH ĐỀ ÁN ĐẨY MẠNH XÃ HỘI HOÁ HOẠT ĐỘNG THỂ DỤC THỂ THAO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA
LAI, GIAI ĐOẠN 2006-2010
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân năm 2003;
Căn cứ Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP, ngày 18/4/2005 của Chính phủ, về đẩy mạnh
xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao;
Căn cứ Nghị quyết số 12/2006/NQ-HĐND ngày 12 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng nhân
dân tỉnh, v/v phê duyệt Đề án đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động thể dục thể thao
trên địa bàn tỉnh Gia Lai, giai đoạn 2006-2010,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1: Ban hành kèm theo quyết
định này: Đề án đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động thể dục thể thao trên địa bàn tỉnh
Gia Lai, giai đoạn 2006-2010.
Điều 2: Các Ông (Bà) Chánh Văn
phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, Giám đốc Sở Thể dục thể thao, Thủ trưởng các Sở,
Ban ngành tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố Pleiku và
Thủ trưởng các đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày, kể từ
ngày ký./.
|
TM. CHỦ TỊCH NHÂN
DÂN TỈNH
CHỦ TỊCH
Phạm Thế Dũng
|
UỶ
BAN NHÂN DÂN
TỈNH GIA LAI
*******
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
ĐỀ ÁN
ĐẨY MẠNH XÃ HỘI HOÁ HOẠT ĐỘNG THỂ DỤC THỂ THAO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH GIA LAI, GIAI ĐOẠN 2006-2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 61/2006/QĐ-UB, ngày 08 tháng 8 năm 2006
của UBND tỉnh Gia Lai )
Thực hiện Nghị quyết 05/NQ/2005 ngày 18/4/2005 của Chính
phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể
thao; Quyết định số 1336/QĐ-UBTDTT ngày 30/6/2005 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy
ban thể dục thể thao về việc “ Phê duyệt Đề án phát triển xã hội hoá thể dục thể
thao đến năm 2010” và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XIII, nhiệm
kỳ 2005-2010,
Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai xây dựng Đề án đẩy mạnh xã
hội hoá hoạt động thể dục thể thao, giai đoạn 2006-2010 như sau:
Phần thứ nhất
THỰC HIỆN XÃ HỘI HOÁ CÔNG TÁC THỂ DỤC THỂ THAO CỦA TỈNH
GIA LAI THỜI GIAN QUA
Xã hội hoá thể dục thể thao là một chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước nhằm phát huy trách nhiệm của toàn xã hội trong việc chăm lo cho
con người, cho cộng đồng. Đây là chủ trương hết sức đúng đắn, phù hợp với yêu cầu
tất yếu, khách quan của sự phát triển. Trong thời gian qua, hoạt động xã hội
hoá công tác thể dục thể thao trên địa bàn toàn tỉnh đã làm được một số kết quả
như sau:
I. Đánh giá kết quả triển khai xã hội hoá hoạt động
thể dục thể thao
1. Về nhận thức:
Nhận thức đúng vai trò tham mưu, hướng dẫn quản lý mọi
hoạt động của ngành Thể dục thể thao, sau khi có Nghị
quyết số 90/1997/NQ-CP và Nghị định 73/1999/NĐ-CP, ngành Thể dục thể thao tuyên
truyền, vận động, triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá; nhận thức của các
cấp, các ngành và của toàn thể xã hội về sự cần thiết, ý nghĩa và tác dụng của
công tác xã hội hoá đối với phát triển sự nghiệp thể dục thể thao đã được nâng
lên một bước. Nhà nước và xã hội đã quan tâm hơn tới công tác thể dục thể thao
nói chung và xã hội hoá thể dục thể thao nói riêng. Các chủ trương, giải pháp
xã hội hoá thể dục thể thao đã dần đi vào cuộc sống, nhận thức của xã hội về thể
dục thể thao ngày càng rõ và sâu hơn. Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, của
toàn xã hội đối với thể dục thể thao ngày càng được nâng cao. Ngành thể dục thể
thao từ tỉnh đến địa phương ngày càng chủ đạo hơn trong việc phối hợp liên
ngành tạo sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội theo chủ trương xã hội hoá nhằm
thúc đẩy sự nghiệp thể dục thể thao tỉnh nhà phát triển và phát huy hiệu quả rõ
rệt.
2. Về thể dục thể thao quần chúng:
Trong những năm qua, phong trào thể dục thể thao quần
chúng phát triển đáng khích lệ, với sự gia tăng số người tập luyện thể dục thể
thao thường xuyên, các hình thức tập luyện đa dạng phong phú, được người dân tự
giác tập luyện hàng ngày như: các bài tập thể dục, chạy cá nhân, đi bộ, cầu
lông, bóng bàn, quần vợt, bóng chuyền, bóng đá mini…
Từ đó, tỷ lệ người tham gia tập luyện thể dục thể thao
thường xuyên đạt(năm 2000 là 12%, đến năm 2005 đạt 18%); số gia đình luyện tập
thể dục thể thao năm 2005 tăng lên 13,5%; số câu lạc bộ thể dục thể thao trên địa
bàn toàn tỉnh là 204 (trong đó số Câu lạc bộ công lập là 94, đạt tỷ lệ 46%;
ngoài công lập là 110, đạt tỷ lệ 54%) chất lượng sinh hoạt được nâng cao; số
trường học đảm bảo chương trình giáo dục thể chất nội khoá có 278/392 trường
chiếm 75% và số trường học thực hiện thể dục thể thao ngoại khoá có 122/392 trường
chiếm 34%. Đối với lực lượng vũ trang 100% tập luyện thể dục thể thao thường
xuyên.
3. Về thể thao thành tích cao:
Những năm gần đây, thể thao thành tích cao đạt nhiều
thành tích đáng kể ở khu vực và cả nước. Hệ thống tổ chức các giải thể thao quần
chúng và thể thao thành tích cao của tỉnh ta ngày càng ổn định và có chất lượng
cao, trong đó có sự đóng góp của công tác xã hội hoá. Thông qua nguồn tài trợ,
đầu tư đúng tầm về con người, cơ sở vật chất và kinh phí của các tổ chức, cá
nhân tạo cơ sở cho công tác tổ chức thi đáu các giải thể thao thành công và các
đội tuyển thể thao thi đấu khởi sắc ở các môn võ, điền kinh, nhất là bóng đá,
được quần chúng nhân dân quan tâm. Đặc biệt, do điều kiện phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh và sự tiến bộ về trình độ thể thao chúng ta đã đăng cai tổ chức
các giải thể thao trong nước và quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá
- thể thao ngày càng cao cho đồng bào các dân tộc trong tỉnh.
4. Huy động các nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất
và vận động tài trợ kinh phí cho các hoạt động thể dục thể thao.
Do nhu cầu tập luyện của người dân ngày càng cao, thời
gian qua những công trình thể dục thể thao trong toàn tỉnh được một số cơ quan
ban ngành, các doanh nghiệp, lực lượng vũ trang và tư nhân đã đầu tư xây dựng
các nhà tập đơn giản, sân bãi để tập luyện như: sân quần vợt, bóng chuyền, cầu
lông, bóng bàn, bể bơi…đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí và nâng cao sức khoẻ
cho nhân dân, cán bộ, công nhân viên chức và lực lượng vũ trang.
Bước đầu ở tỉnh đã vận động các cơ quan, ban, ngành,
đoàn thể, doanh nghiệp chi giải thưởng cho các giải thể thao phong trào như: giải
việt dã, giải bóng đá thiếu niên - nhi đồng, giải quần vợt, cầu lông…
5. Các cơ sở thể dục thể thao ngày càng được đầu tư
phát triển:
Hệ thống thể dục thể thao công lập ở tỉnh ta tiếp tục
phát triển và giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch vụ tổ chức tập
luyện và thi đấu các giải thể thao trong tỉnh, quốc gia và quốc tế. Toàn tỉnh
có 01 sân vận động 1 vạn chỗ ngồi, 01 nhà thi đấu đa năng; cấp thành phố và huyện
quản lý: hầu hết đều có sân vận động, có 06 huyện và thị xã có khán đài
(An Khê, Mang Yang, Krông Pa, Kong Chro, Chư Sê, Kbang) còn lại không có khán
đài, chủ yếu là sân đất; riêng thành phố Pleiku có 02 nhà tập (các huyện, thị
xã chưa có) đã phục vụ cho các hoạt động thể dục thể thao ở cơ sở bảo đảm sự cần
thiết phát triển phong trào thể dục thể thao ở địa phương.
6. Về hoạt động của các tổ chức xã hội thể dục thể
thao và chương trình phối hợp liên tịch với các ngành, đoàn thể:
a. Về hoạt động của các tổ chức xã hội thể thao:
Đến nay, đã có 9 tổ chức xã hội thể dục thể thao gồm:
Liên đoàn bóng đá, Liên đoàn bóng chuyền, Liên đoàn quần vợt, Hội võ cổ truyền,
Hội Karatedo, Hội Taekwondo, Hội Vovinam - Việt võ đạo, Câu lạc bộ Mô tô và Câu
lạc bộ Bóng đá Hoàng Anh Gia Lai; các tổ chức xã hội này bước đầu đã phát huy
được vai trò của mình để tổ chức phát triển hoạt động thể dục thể thao.
Các tổ chức xã hội thể dục thể thao đã phối hợp, hỗ trợ
kinh phí tổ chức các giải thể thao, cử huấn luyện viên tham gia các lớp tập huấn
về chuyên môn do Ủy ban thể dục thể thao, các Liên đoàn thể thao Trung ương tổ
chức và thành lập các đoàn vận động viên tham gia các giải thi đấu khu vực – quốc
gia. Riêng câu lạc bộ Bóng đá Hoàng Anh Gia Lai đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,
trang thiết bị dụng cụ, cũng như vận động viên tham gia thi đấu các giải quốc
gia và quốc tế đạt hiệu quả cao.
b. Về chương trình ký kết liên tịch với các ngành, đoàn
thể để chỉ đạo hoạt động thể dục thể thao:
Thực hiện chương trình liên tịch với các ngành đoàn thể
trong những năm qua ngành thể dục thể thao tỉnh đã có sự liên kết phối hợp khá
chặt chẽ. Nhiều ban ngành đã có phong trào thể dục thể thao mạnh đã đóng góp
vào sự nghiệp thể dục thể thao chung của tỉnh nhà. Nhiều cơ quan, ban ngành,
đoàn thể, lực lượng vũ trang đã bắt đầu coi sinh hoạt thể thao như một nhu cầu
không thể thiếu, đặt ra các tiêu chí cụ thể như tổ chức hoạt động thể dục thể
thao thường xuyên vào các ngày lễ lớn, kỷ niệm ngày thành lập ngành, giành đất
xây dựng sân bãi nhà tập…coi đó là những chỉ tiêu thi đua cuối năm như: Công
an, Hội Nông dân, Liên đoàn lao động, Ngân hàng, Điện lực, Bưu điện…
Ngành thể dục thể thao đã ký kết chương trình phối hợp
hoạt động với các ban ngành, đoàn thể: Giáo dục - Đào tạo, Liên đoàn Lao động,
Sở Văn hoá thông tin, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân, Hội
Liên hiệp Phụ nữ, Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em, Công an, Bộ đội biên phòng,
Cơ quan quân sự tỉnh, Hội người cao tuổi, Ban dân tộc…
II. Một số tồn tại và nguyên nhân:
- Công tác tuyên truyền về xã hội hoá thể dục thể thao
chưa sâu rộng, đặc biệt là tuyên truyền về các chính sách khuyến khích, tạo điều
kiện cho tổ chức, cá nhân trong tỉnh, ngoài tỉnh đầu tư, tài trợ để phát triển
sự nghiệp thể dục thể thao.
- Còn thiếu những văn bản hướng dẫn địa phương triển
khai cho cơ sở thể dục thể thao ngoài công lập; chưa có chính sách mở để khuyến
khích các doanh nghiệp, tập thể và tư nhân đầu tư cơ sở vật chất, sân bãi…phục
vụ cho hoạt động thể dục thể thao.
- Một số cấp uỷ, chính quyền các cấp và ban ngành chưa
thật sự quan tâm, chưa tạo điều kiện, kích thích phong trào tập luyện- thi đấu
thể thao trong các đối tượng cán bộ công chức và quần chúng nhân dân.
Phần thứ hai
NỘI DUNG PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HOÁ CÔNG TÁC THỂ DỤC THỂ
THAO GIAI ĐOẠN 2006-2010
Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá trên lĩnh vực thể dục thể
thao trong thời gian tới theo Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính
phủ về “Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể
dục thể thao”, cần tập trung vào một số nội dung sau:
I. Mục tiêu xã hội hoá thể dục thể thao đến năm 2010:
1. Mục tiêu tổng quát:
1.1. Vận động và tổ chức để ngày càng có nhiều người trực
tiếp tham gia tập luyện, hoặc đóng góp vào các hoạt động thể dục thể thao nhằm
đẩy nhanh tốc độ phát triển thể dục thể thao, góp phần tăng cường sức khoẻ,
phát triển nguồn nhân lực, thoả mãn nhu cầu thưởng thức các giá trị thể dục thể
thao, làm cho thể dục thể thao thực sự trở thành hoạt động “ của dân, do
dân, vì dân”. Phấn đấu xây dựng một “xã hội hưởng ứng và tập luyện thể dục thể
thao”.
1.2. Huy động mọi nguồn lực đầu tư cho thể dục thể thao,
tập trung ưu tiên cho xây dựng cơ sở vật chất để phát triển hoạt động phong
trào quần chúng và nâng cao thành tích các đội tuyển thể thao.
1.3. Từng bước tạo lập và phát triển dịch vụ thể dục thể
thao theo hướng thị trường để cạnh tranh phát triển nhằm phục vụ tốt hơn, chất
lượng hơn và phong phú hơn.
1.4. Chuyển đổi các cơ sở công lập sang dịch vụ và ra
ngoài công lập. Mở rộng quy mô hệ thống sơ sở thể dục thể thao ngoài công lập.
2. Một số chỉ tiêu cơ bản đến năm 2010:
2.1. Đến năm 2010 toàn tỉnh có 22% dân số tập luyện thể
dục thể thao thường xuyên và 18% số hộ gia đình thể thao.
2.1. 80% số trường, số học sinh tập thể dục thể thao nội
khoá, số còn lại được tổ chức học ngoại khoá.
2.3. Chuyển một số cơ sở và các câu lạc bộ thể dục thể
thao công lập có điều kiện sang loại hình ngoài công lập. Các cơ sở, câu lạc bộ
thể dục thể thao ngoài công lập chiếm khoảng 60-70% tổng số cơ sở thể dục thể
thao trong toàn tỉnh (theo cơ chế có thu).
2.4. Chuyển Trung tâm huấn luyện và đào tạo thể dục thể
thao tỉnh thành đơn vị hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ, thành lập Trung
tâm dịch vụ thi đấu thể dục thể thao, là đơn vị sự nghiệp tự chủ về tài chính.
2.5. Xây dựng các Hội, Liên đoàn và Câu lạc bộ cấp tỉnh
khoảng 70% số môn thể thao hiện có của tỉnh.
II. Các giải pháp chính để phát triển xã hội hoá thể
dục thể thao:
1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức
về xã hội hoá thể dục thể thao.
Cơ quan quản lý nhà nước về thể dục thể thao phối hợp với
các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các cơ quan thông tin đại chúng tổ chức tuyên
truyền, phổ biến chủ trương, chính sách khuyến khích xã hội hoá, nâng cao nhận
thức của toàn xã hội; phát huy tinh thần cộng đồng trách nhiệm của mọi người
dân trong việc tham gia các hoạt động thể dục thể thao. Xây dựng và nhân rộng
các mô hình điểm về xã hội hoá trong lĩnh vực hoạt động và từng đối tượng tham
gia hoạt động thể dục thể thao.
2. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào
lĩnh vực thể dục thể thao.
3. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý nhà nước về
thể dục thể thao
3.1. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phân cấp, qui định cụ
thể về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi giải quyết công việc của từng cấp. Rà soát,
tách các đơn vị sự nghiệp ra khỏi quản lý nhà nước và phân loại cơ sở thể dục
thể thao công lập có khả năng làm dịch vụ để có kế hoạch, tiến độ thực hiện việc
chuyển đổi cơ chế quản lý hành chính thành đơn vị sự nghiệp có thu theo Nghị định
số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ về việc “ Qui định quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập” hoặc cổ phần hoá, chuyển sang mô hình
ngoài công lập.
3.2. Thí điểm thực hiện, tiến tới áp dụng cơ chế phối hợp
đồng trách nhiệm, giao kế hoạch và khoán kinh phí hàng năm cho các tổ chức xã hội
thực hiện nhiệm vụ phát triển từng môn thể thao.
Tạo điều kiện hỗ trợ về chuyên môn và các điều kiện khác
để các ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị - kinh tế - xã hội tổ chức thi đấu
các giải thể thao quần chúng; động viên phong trào tập luyện, đa dạng hoá các
hình thức thi đấu cho nhiều đối tượng, lứa tuổi, môn thi, qui mô…
3.3. Qui định chặt chẽ, rõ ràng và đơn giản các thủ tục
nhằm nhanh chóng, thuận tiện trong việc cấp phép, đăng ký hoạt động, đăng ký
hành nghề của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực dịch vụ thể dục thể thao.
3.4. Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
cho đội ngũ cán bộ quản lý của ngành, xây dựng tác phong năng động, gần dân,
bám cơ sở trong đội ngũ cán bộ - công chức quản lý thể dục thể thao các cấp.
3.5. Tăng cường thanh tra, giám sát việc chấp hành pháp
luật tại các cơ sở thể dục thể thao (công lập và ngoài công lập); xử lý kịp thời
đối với các cơ sở vi phạm và có hình thức khen thưởng đối với các cơ sở thực hiện
tốt.
3.6. Công khai qui hoạch, kế hoạch hoạt động, công khai
tài chính, ngân sách để dân biết, dân tham gia và dân giám sát hoạt động của
các cơ quan quản lý nhà nước về thể dục thể thao.
4. Đổi mới các chính sách đầu tư của nhà nước trong
lĩnh vực thể dục thể thao
4.1. Tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho lĩnh vực
thể dục thể thao trọng điểm và thực hiện các chính sách xã hội; đảm bảo công bằng
trong thụ hưởng dịch vụ thể dục thể thao giữa các đối tượng, địa bàn dân cư.
4.2 Từng bước thực hiện chính sách đấu thầu cung cấp
hàng hoá dịch vụ thể dục thể thao do các cơ quan nhà nước đặt hàng.
5. Tập trung phát triển thị thường thể dục thể thao
5.1 Khuyến khích tạo điều kiện để phát triển, đa dạng
hoá các loại hình dịch vụ thể dục thể thao; khuyến khích mạng lưới các doanh
nghiệp sản xuất dụng cụ, trang thiết bị thể dục thể thao (công lập và ngoài
công lập) trên cơ sở tuân thủ các qui định về chất lượng hàng hoá thể dục thể
thao; khuyến khích các hình thức liên doanh, liên kết khai thác các công trình
thể dục thể thao.
5.2. Đẩy mạnh các hoạt động tài trợ, quảng cáo trong
lĩnh vực thể dục thể thao; khuyến khích, tạo điều kiện nhanh chóng phát triển
thị trường dịch vụ thể dục thể thao hoạt động theo qui định của pháp luật.
5.3. Tiếp tục thực hiện cơ chế chính sách đầu tư đối với
các đơn vị thể dục thể thao ngoài công lập (theo Nghị định 73/1999/NĐ-CP ngày
19/8/1999 và Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ) được
hưởng các ưu đãi mà Nhà nước đã ban hành.
Phần thứ ba
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Tổ chức học tập, quán triệt sâu sắc Nghị quyết số
05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ, gắn với các nội dung cơ bản của Đề
án phát triển xã hội hoá hoạt động thể dục thể thao giai đoạn 2006-2010 của tỉnh.
- Các đơn vị thuộc ngành thể dục thể thao, Ủy ban nhân
dân các huyện, thị xã, thành phố, các ban ngành, đoàn thể liên quan, trên cơ sở
Đề án của tỉnh, cụ thể hoá thành kế hoạch phù hợp với tình hình thực tế nhiệm vụ
của đơn vị mình và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao nhất.
- Sở Thể dục thể thao là cơ quan chủ trì, phối hợp với
các sở, ngành tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành, sửa đổi, bổ sung các
chính sách, cơ chế và giải pháp cụ thể để thực hiện Đề án này.
- Ngành thể dục thể thao, các cơ quan chức năng tổ chức
công tác kiểm tra, đánh giá định kỳ hoặc đột xuất việc thực hiện đề án; tổ chức
sơ kết, tổng kết định kỳ hàng năm báo cáo các cấp theo qui định./.
|
TM. UỶ BAN NHÂN
DÂN TỈNH
CHỦ TỊCH
Phạm Thế Dũng
|