ĐỀ ÁN
VỀ TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC DÂN SỐ VÀ KẾ
HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN ĐẾN NĂM 2010 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN
NĂM 2015
(Kèm theo Quyết định số 271/2009/QĐ-UBND ngày 16 tháng 9 năm 2009 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Ninh Thuận)
I. Cơ sở
pháp lý và sự cần thiết ban hành Đề án
1. Cơ sở pháp lý:
- Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày
22 tháng 3 năm 2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh chính sách dân số - kế
hoạch hoá gia đình;
- Thông báo số 160-TB/TW ngày
04 tháng 6 năm 2008 của Ban Bí thư về tình hình thực hiện chính sách dân số - kế
hoạch hoá gia đình và một số giải pháp cấp bách;
- Quyết định số 170/2007/QĐ-TTg
ngày 08 tháng 11 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương
trình mục tiêu quốc gia dân số và kế hoạch hoá gia đình giai đoạn 2006 - 2010;
- Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg
ngày 04 tháng 8 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công
tác dân số - kế hoạch hoá gia đình;
- Công văn số 1545/TTg-KGVX
ngày 17 tháng 9 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về công tác dân số - kế hoạch
hoá gia đình;
- Chỉ thị số 01-CT/TU ngày 12
tháng 01 năm 2006 của Tỉnh ủy Ninh Thuận về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính
sách dân số - kế hoạch hoá gia đình;
- Kế hoạch hành động số
1289/KH-UBND ngày 11 tháng 5 năm 2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận về
việc thực hiện Nghị quyết số 47/NQ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2005 của Bộ Chính trị
về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình;
- Nghị quyết số 10/2009/NQ-HĐND
ngày 23 tháng 7 năm 2009 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc phê duyệt đề án tiếp
tục đẩy mạnh công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình trên địa bàn tỉnh Ninh
Thuận đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015.
2. Sự cần thiết: những năm qua
công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình của tỉnh được thực hiện theo tinh thần
Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) về
chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình và Nghị quyết số 47/NQ-TW ngày 22
tháng 3 năm 2005 của Bộ Chính trị về tăng cường đẩy mạnh thực hiện chính sách
dân số - kế hoạch hoá gia đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp của các ngành,
đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở, công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình của tỉnh đã
đạt được những kết quả quan trọng: nhận thức của người dân có bước chuyển biến
rõ rệt, quy mô gia đình 1 hoặc 2 con được chấp nhận ngày càng rộng rãi, số con
trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh
đẻ giảm từ 2,76 con (năm 2005) xuống còn dưới 2,28 con (năm 2008), tỷ suất sinh
giảm từ 20,64‰ (năm 2005) xuống còn 17,2‰ (năm 2008), tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên ở mức 1,25% (năm 2008), tỷ lệ cặp vợ chồng áp dụng biện pháp tránh thai đạt
75,35%, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 25,5% (năm 2008).
Tuy nhiên, kết quả trên không đồng
đều, chưa bền vững, vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ tăng dân số trở lại do tỷ suất sinh
trong những năm gần đây giảm chậm và có xu hướng chững lại, từ năm 2005 tỷ
suất sinh là 20,64‰ đến năm 2006 giảm xuống còn 17,97‰ (giảm 2,67‰), tỷ suất
sinh năm 2007 là 17,68‰ đến năm 2008 giảm xuống còn 17,18‰ (chỉ giảm 0,5‰); tỷ
lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm chậm, thiếu ổn định từ năm 2005 (17,28%) đến năm
2008 (16,79%) chỉ giảm 0,49%, so với mức bình quân của cả nước vẫn còn ở mức
cao (bình quân của cả nước tỷ lệ này năm 2008 là 10,9%). Một bộ phận người dân
còn giữ quan niệm lạc hậu trong lĩnh vực sinh đẻ như “trọng nam hơn nữ”, “có
con trai để nối dõi tông đường”, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên vẫn còn cao (năm
2008: 1,25%) so với mức bình quân của cả nước (năm 2008: 1,19%), tỷ lệ cặp vợ
chồng thực hiện các biện pháp tránh thai hiện đại vẫn còn thấp (năm 2008:
70,5%) so với mức bình quân của cả nước (năm 2008: 73,9%), tổ chức bộ máy làm
công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình có sự thay đổi dẫn đến cán bộ làm công
tác này bị xáo trộn, không ổn định. Đã xuất hiện sự mất cân bằng giới tính khi
sinh, theo báo cáo thống kê chuyên ngành dân số của tỉnh thì năm 2006 là 114 trẻ
em trai/100 trẻ em gái, năm 2008: 117 trẻ em trai/100 trẻ em gái, trong khi đó
quy luật sinh sản tự nhiên là từ 103 đến 106 trẻ em trai/100 trẻ em gái. Chất
lượng dân số (thể chất, trí tuệ, tinh thần) của người Việt Nam tuy đã được cải
thiện nhiều nhưng thể lực, tầm vóc của thanh thiếu niên, người trưởng thành còn
rất thấp so với khu vực và quốc tế. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em toàn tỉnh vẫn
còn ở mức cao 25,5% năm 2008. Mức giảm trung bình hằng năm chỉ vào khoảng 1 -
1,5%. Nếu những tình trạng trên không được khắc phục kịp thời thì sẽ ảnh hưởng
lâu dài đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
* Nguyên nhân:
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Các cấp, các ngành một số nơi
có tư tưởng chủ quan, thoả mãn với những kết quả đã đạt được dẫn đến thiếu sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện các mục tiêu của công
tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.
+ Công tác tuyên truyền, vận động,
giáo dục thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình chưa đổi mới phù hợp
với từng đối tượng, địa phương, hoàn cảnh và chưa thường xuyên. Một số đảng
viên, cán bộ, công chức, viên chức vi phạm chính sách dân số - kế hoạch hoá gia
đình đã ảnh hưởng đến việc vận động nhân dân thực hiện chính sách này;
- Nguyên nhân khách quan: tổ chức
bộ máy làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình từ tỉnh đến cơ sở không ổn định.
Chế độ chính sách đối với cán bộ dân số - kế hoạch hoá gia đình cấp xã còn bất
cập. Đầu tư nguồn lực cho công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình còn thấp,
không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới.
Để thực hiện thành công mục
tiêu giảm sinh tiến tới duy trì mức sinh thay thế và ổn định quy mô dân số tỉnh
Ninh Thuận ở mức hợp lý, từng bước nâng cao chất lượng dân số, đòi hỏi phải có
nhiều biện pháp, giải pháp đồng bộ trong đó cần ban hành Đề án triển khai thực
hiện công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình phù hợp với thực tế trong giai đoạn
hiện nay của địa phương.
II. Hiệu quả
của Đề án
1. Hiệu quả về xã hội:
- Đề án công tác dân số - kế hoạch
hoá gia đình là sự cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình trong tình hình mới thực sự đi vào cuộc
sống;
- Nâng cao nhận thức của các cấp,
các ngành và các tầng lớp nhân dân về chính sách dân số - kế hoạch hoá gia
đình; khuyến khích họ tích cực tham gia các hoạt động của công tác dân số - kế
hoạch hoá gia đình;
- Nâng cao chất lượng dân số và
các loại hình dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình nhằm
đáp ứng nhu cầu của từng người dân, từng bước tạo sự ổn định quy mô dân số và
kiểm soát tốc độ gia tăng dân số trong những năm tiếp theo.
2. Hiệu quả về kinh tế:
- Huy động được các nguồn lực
trong xã hội tham gia vào công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình;
- Từng bước hiện đại hoá các
trang thiết bị, phương tiện thực hiện chăm sóc sức khoẻ sinh sản và kế hoạch
hoá gia đình;
- Tận dụng được cơ cấu dân số
“Vàng” trong giai đoạn 2008 - 2022 để phát triển kinh tế, ổn định xã hội và cải
thiện chất lượng cuộc sống cho nhân dân trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
III. Quan điểm,
mục tiêu thực hiện mục tiêu quốc gia dân số - kế hoạch hoá gia đình đến năm
2010 và định hướng đến năm 2015
1. Quan điểm: tiếp tục quán triệt
và kiên quyết thực hiện 5 quan điểm cơ bản của Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia
đình và Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2005 của Bộ Chính trị khoá
IX; phấn đấu sớm đạt được mục tiêu về ổn định quy mô dân số, đồng thời từng bước
nâng cao chất lương dân số Việt Nam; toàn Đảng, toàn dân kiên trì thực hiện
chủ trương mỗi cặp vợ chồng chỉ có một hoặc hai con để có điều kiện nuôi dạy tốt;
cán bộ, đảng viên phải gương mẫu đi đầu thực hiện chính sách dân số và kế hoạch
hoá gia đình.
2. Mục tiêu:
a) Mục tiêu tổng quát: thực hiện
gia đình ít con, khoẻ mạnh, ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý để có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, nâng cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng
cao để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh nhà;
b) Mục tiêu cụ thể:
* Về giảm sinh:
- Mục tiêu: duy trì xu thế
giảm sinh vững chắc ở các vùng thành thị, vùng đồng bằng và nông thôn phát triển;
tiếp tục giảm nhanh mức sinh ở vùng núi, ven biển để đến năm 2010 đạt mức sinh
thay thế trên toàn tỉnh, tiến tới duy trì mức sinh thay thế, ổn định quy mô dân
số phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
- Các chỉ tiêu đến năm 2010:
+ Đạt mức sinh thay thế trên
toàn tỉnh (tổng tỷ suất sinh đạt 2,1 con/1 phụ nữ trong độ tuổi từ 15 đến 49 tuổi).
+ Quy mô dân số toàn tỉnh dưới
630.000 người.
+ Giảm tỷ suất sinh 0,3‰ hằng
năm để tỷ suất sinh toàn tỉnh đạt 16,48‰.
+ Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên
dưới 16,6%.
+ Tỷ suất chết thô: 4,48‰.
+ Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên:
1,2%.
+ Tỷ lệ cặp vợ chồng áp dụng biện
pháp tránh thai hiện đại: 75%.
- Định hướng các chỉ tiêu đến
năm 2015:
+ Tiếp tục duy trì và giảm mức
sinh thay thế trên toàn tỉnh.
+ Quy mô dân số toàn tỉnh khoảng
640.000 người.
+ Giảm tỷ suất sinh 0,3‰ hằng
năm để tỷ suất sinh toàn tỉnh đạt 14,98‰.
+ Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên
dưới 11,6%.
+ Tỷ suất chết thô: 3,7‰.
+ Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên:
1,13%.
+ Tỷ lệ cặp vợ chồng áp dụng biện
pháp tránh thai hiện đại: 78%.
* Về cơ cấu dân số và chất lượng
dân số:
- Mục tiêu: từng bước nâng cao
chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần, cơ cấu dân số nhằm đáp ứng
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giảm
thiểu sự mất cân bằng giới tính khi sinh để đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức
chuẩn sau năm 2010.
- Chỉ tiêu đến năm 2010: tỷ lệ
suy dinh dưỡng trẻ em (dưới 5 tuổi) dưới 23%.
- Các chỉ tiêu định hướng đến
năm 2015:
+ Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em
(dưới 5 tuổi) là dưới 18%.
+ Đưa tỷ số giới tính về mức
chuẩn: 106 trẻ em trai/100 trẻ em gái.
IV. Nhiệm vụ
và giải pháp chủ yếu
1. Về tăng cường sự chỉ đạo của
các cấp chính quyền:
- Tiếp tục quán triệt sâu sắc,
thống nhất quan điểm, nhận thức và hành động, tăng cường sự chỉ đạo về công tác
dân số - kế hoạch hoá gia đình, tránh tư tưởng chủ quan, buông lỏng, phấn đấu
thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã được xác định tại Quyết định số 170/2007/QĐ-TTg ngày 08 tháng 11 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia dân số và kế hoạch hoá gia
đình giai đoạn 2006 - 2010; Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg
ngày 04 tháng 8 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công
tác dân số - kế hoạch hoá gia đình và Chỉ thị số
01-CT/TU ngày 12 tháng 01 năm 2006 của Tỉnh ủy Ninh Thuận về tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình;
-
Xây dựng chương trình công tác hằng năm của đơn vị, địa phương, gắn với kết quả
thực hiện mục tiêu chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình để đánh giá mức độ
hoàn thành nhiệm vụ công tác của đơn vị và cá nhân; nghiêm túc kiểm điểm trách
nhiệm về sự yếu kém của công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình;
- Huy động toàn xã hội tham gia
công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, coi đây là một trong những nhiệm vụ
quan trọng, chiến lược lâu dài trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội của
các ngành, địa phương;
- Các sở, ban, ngành, đoàn thể,
tổ chức kinh tế, xã hội có trách nhiệm tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách
dân số và kế hoạch hoá gia đình tại đơn vị; đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp
trong việc thực hiện mô hình ít con (1 hoặc 2 con);
- Các cấp, các ngành cần cụ thể
hoá việc thực hiện chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình trong công tác thi
đua, khen thưởng và công tác cán bộ; không đề cử, bổ nhiệm chức vụ và xem xét
đưa ra khỏi chức vụ lãnh đạo đối với cán bộ, công chức, viên chức vi phạm chính
sách này; không công nhận là cơ quan văn hoá, thôn, khu phố văn hoá; gia đình
văn hoá;
- Xử lý nghiêm các hành vi lựa
chọn giới tính thai nhi; xử lý nghiêm những người vi phạm chế độ chăm sóc, nuôi
dưỡng ông bà, cha mẹ theo quy định của pháp luật;
- Ứng dụng công nghệ thông tin
nhằm thực hiện việc cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác dữ liệu về
dân số đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành, đánh giá kết quả thực hiện chính
sách dân số - kế hoạch hoá gia đình;
- Định kỳ kiểm tra việc thực hiện
chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình tại đơn vị, địa
phương; có biện pháp khắc phục tình trạng sinh con thứ 3 trở lên trong đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức; xử lý nghiêm những cán bộ,
công chức, viên chức vi phạm chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình theo quy
định hiện hành.
2. Về tổ chức bộ máy và quản lý
công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình:
- Nhanh chóng kiện toàn và ổn định
tổ chức bộ máy làm công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình cấp xã; đảm bảo đủ
số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ từ tỉnh đến cơ sở. Đặc biệt chú
ý bố trí biên chế cán bộ chuyên trách dân số và kế hoạch hoá gia đình ở Trạm Y
tế xã, phường, thị trấn, duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của cộng tác
viên dân số ở thôn, khu phố để đưa thông tin và dịch vụ đến tận người dân.
+ Cấp tỉnh: Chi cục Dân số và kế
hoạch hoá gia đình có ít nhất 20 biên chế hành chính (không kể lái xe, bảo vệ,
tạp vụ theo hợp đồng).
+ Cấp huyện: mỗi Trung tâm Dân
số và kế hoạch hoá gia đình huyện ít nhất phải có 6 người (không kể bảo vệ, lái
xe và tạp vụ làm việc theo hợp đồng).
+ Cấp xã: mỗi xã được bố trí 1
cán bộ chuyên trách dân số và kế hoạch hoá gia đình ở Trạm Y tế xã.
+ Cộng tác viên dân số ở thôn,
tổ dân phố được bố trí theo số lượng hộ gia đình ở địa bàn phụ trách, thực hiện
theo Thông tư số 32/2008/TTLT-BTC-BYT của Bộ Tài chính và Bộ Y tế;
- Bố trí đủ cơ sở vật chất đảm
bảo thuận lợi cho Chi cục Dân số và kế hoạch hoá gia đình tỉnh và các Trung tâm
Dân số và kế hoạch hoá gia đình các huyện, thành phố hoạt động;
- Thành lập Ban chỉ đạo dân số
và kế hoạch hoá gia đình ở cấp huyện và kiện toàn lại Ban dân số và kế hoạch
hoá gia đình ở cấp xã. Ban chỉ đạo dân số và kế hoạch hoá gia đình sẽ do Chủ tịch
hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân làm Trưởng ban để tăng cường sự chỉ đạo và phối
hợp liên ngành thực hiện công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình trong thời
gian tới và huy động sự tham gia của toàn xã hội, các cấp, các ngành.
3. Về truyền thông giáo dục:
- Triển khai đồng bộ, thường xuyên
các hoạt động tuyên truyền, vận động, giáo dục và tư vấn về dân số và kế hoạch
hoá gia đình với các mục tiêu về giảm sinh, cơ cấu dân số và chất lượng dân số
phù hợp với từng nhóm đối tượng, điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá của từng
vùng, nhằm góp phần nâng cao nhận thức và tạo môi trường thuận lợi về chính
sách, nguồn lực và dư luận xã hội thúc đẩy mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng
dân cư chủ động, tự nguyện chuyển đổi hành vi để thực hiện đúng chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về dân số và kế hoạch hoá gia
đình;
- Tăng cường các hoạt động tuyên
truyền, vận động, giáo dục lồng ghép cung cấp dịch vụ theo định hướng ưu tiên
cho cơ sở, miền núi, trung du vùng khó khăn, vùng có mức sinh cao và địa bàn đặc
thù;
- Các cơ quan thông tin đại chúng
tăng cường thời lượng phát sóng, số lượng bài viết và nâng cao chất lượng nội
dung, hình thức tuyên truyền về dân số, sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia
đình trong các chương trình, chuyên trang, chuyên mục;
- Các cấp, các ngành, các đoàn thể
và tổ chức xã hội đẩy mạnh tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách dân số
và kế hoạch hoá gia đình trực tiếp đến các thành viên, hội viên và các tầng lớp
nhân dân; thực hiện có hiệu quả hình thức tư vấn cá nhân và tư vấn cộng đồng về
kế hoạch hoá gia đình;
- Nâng cao chất lượng chương trình
giáo dục dân số trong nhà trường;
- Thường xuyên nêu gương những đơn
vị, dòng họ, gia đình và cá nhân gương mẫu thực hiện, tích cực vận động người
khác thực hiện tốt chính sách kế hoạch hoá gia đình;
- Chú trọng đẩy mạnh công tác truyền
thông trong giới trẻ với việc chấp nhận và tự nguyện thực hiện kế hoạch hoá gia
đình, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, tập trung cho vùng nông thôn, vùng miền núi,
vùng khó khăn, nơi mức sinh còn cao;
- Tăng cường lồng ghép các hoạt động
truyền thông về dân số kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc sức khoẻ sinh sản với
các hoạt động truyền thông trong chương trình y tế dự phòng, vệ sinh an toàn thực
phẩm, phòng chống HIV/AIDS của ngành nhằm tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực
cũng như kết quả thực hiện chương trình.
4. Về tăng cường cung cấp và nâng
cao chất lượng dịch vụ kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc sức khoẻ sinh sản:
-
Nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ y tế làm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản/kế hoạch hoá gia đình, bảo đảm cung cấp dịch vụ an toàn, thuận tiện và
chất lượng tốt cho người dân;
- Bảo đảm đủ các loại phương tiện
tránh thai, quản lý chặt chẽ việc phân phối, sử dụng các phương tiện tránh thai
miễn phí; đẩy mạnh tiếp thị xã hội phương tiện tránh thai;
- Hằng năm tiếp tục duy trì các đợt
chiến dịch tăng cường tuyên truyền vận động lồng ghép cung cấp dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ sinh sản/kế hoạch hoá gia đình ở miền núi, trung du, vùng có mức sinh cao và vùng khó khăn tại 100% cấp
huyện và khoảng 65% ở cấp xã;
- Tổ chức các đội cung cấp dịch vụ
sức khoẻ sinh sản/kế hoạch hoá gia đình lưu động đến vùng nông thôn, vùng núi, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có
mức sinh cao, ...;
- Xây dựng, triển khai các mô
hình, phương thức cung cấp dịch vụ phù hợp đáp ứng nhu cầu dịch vụ sức khoẻ
sinh sản/kế hoạch hoá gia đình cho
những địa bàn, đối tượng đặc thù và đối với giới trẻ, vị thành niên, thanh
niên. Lồng ghép hoạt động cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình với phòng, chống
HIV/AIDS. Khuyến khích sự tham gia cung cấp dịch vụ của khu vực tư nhân và các
tổ chức xã hội.
5. Từng bước thực hiện chương
trình nâng cao chất lượng dân số:
- Chỉ đạo triển khai có hiệu quả
các mô hình, dự án từ chương trình mục tiêu quốc gia dân
số - kế hoạch hoá gia đình về nâng cao chất lượng dân số;
- Nghiêm cấm các hành vi chẩn
đoán giới tính thai nhi, phá thai vì lý do lựa chọn giới tính thai nhi;
- Thực hiện có hiệu quả chương
trình phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi;
- Phối hợp triển khai các chương
trình giảm nghèo, phòng, chống các tệ nạn xã hội, phòng, chống HIV/AIDS, ...
6. Chính sách và đầu tư nguồn lực:
a) Chính sách: xây dựng và thực hiện
tốt các chính sách khuyến khích tập thể, cá nhân thực hiện tốt chính sách dân số
và kế hoạch hoá gia đình; chính sách, biện pháp đặc thù đối với vùng dân tộc
ít người trong việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; chính
sách, chế độ đối với cán bộ làm công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình ở xã,
phường, thị trấn; khuyến khích bằng vật chất và tinh thần đối với đội ngũ cộng
tác viên dân số ở các tổ dân phố, cụm dân cư, thôn; khuyến khích bằng vật chất
và tinh thần đối với tập thể và cá nhân tích cực tham gia tuyên truyền và cung
cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình.
- Chính sách khuyến khích tập thể,
cá nhân thực hiện tốt chính sách dân số và kế hoạch hoá
gia đình:
+ Những địa phương, đơn vị, cá
nhân đạt thành tích xuất sắc về công tác dân số và kế
hoạch hoá gia đình được Ủy ban nhân dân tỉnh khen thưởng.
+ Mô hình không có người sinh con
thứ 3 trở lên được Ủy ban nhân dân tỉnh khen thưởng với các mức cụ thể sau:
* Xã, phường, thị trấn hạ tỷ lệ
sinh con thứ 3 trở lên nhanh nhất và xã, phường không có người sinh con thứ 3
trở lên, được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng bằng khen và mức
thưởng theo quy định hiện hành.
* Đối với thôn, khu phố 3 năm liền
ở miền núi và 5 năm liền ở khu vực đồng bằng không có người sinh con thứ 3 trở
lên được Ủy ban nhân dân tỉnh trao tặng bằng khen và mức
thưởng theo quy định hiện hành.
+ Hằng năm các ngành, các cấp, các
cơ quan, đơn vị xét khen thưởng cho những đơn vị, cá nhân có thành tích xuất sắc
trong việc tổ chức, vận động và thực hiện công tác dân
số và kế hoạch hoá gia đình thuộc phạm vi quản lý.
+ Các cơ quan, tổ chức khi xét kết
quả thực hiện hoàn thành kế hoạch thì kết quả thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình phải được xem
là một tiêu chuẩn để đánh giá xếp loại thi đua.
+ Các cơ quan, tổ chức ưu tiên cho
những cặp vợ chồng thực hiện tốt chính sách dân số và kế
hoạch hoá gia đình hưởng các chế độ ưu đãi như: vay vốn để
phát triển kinh tế gia đình, khám chăm sóc sức khoẻ sinh sản, ...;
b)
Kinh phí đầu tư: hằng năm,
ngoài ngân sách từ chương trình mục tiêu quốc gia dân số và kế hoạch hoá gia
đình của Trung ương phân bổ và nguồn kinh phí trả lương cho cán bộ dân số - kế hoạch hoá gia đình huyện, xã, Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ cân
đối ngân sách địa phương bố trí kinh phí nhằm hỗ trợ cho một số hoạt động của
chương trình dân số - kế
hoạch hoá gia đình trên địa bàn tỉnh cụ thể:
- Hỗ trợ thêm cho người triệt sản:
+ Đối với khu vực đồng bằng:
100.000 đồng/người.
+ Đối với khu vực miền núi,
vùng khó khăn: 200.000 đồng/người.
- Hỗ trợ thêm chi phí tổ chức vận
chuyển người triệt sản ở các xã miền núi, vùng khó khăn: 70.000 đồng/người.
- Hỗ trợ cho người vận động đối
tượng triệt sản: 20.000 đồng/ca.
- Hỗ trợ thêm cho mỗi cộng tác
viên dân số - kế hoạch hoá gia đình:
+ Đối với khu vực đồng bằng:
20.000 đồng/người/tháng.
+ Đối với khu vực miền núi,
vùng khó khăn: 30.000 đồng/người/tháng.
- Hỗ trợ mua dụng cụ tránh thai
cấp cho đối tượng cận nghèo.
Kinh phí đầu tư cho công tác
dân số - kế hoạch hoá gia đình được ghi thành mục riêng trong kế hoạch phân bổ
nguồn vốn hằng năm của Ủy ban nhân dân tỉnh để thực hiện mục tiêu giảm sinh.
V. Tổ chức
thực hiện
1. Sở Y tế:
- Chủ trì, phối hợp với Sở Tư
pháp, các cơ quan liên quan rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về
dân số và kế hoạch hoá gia đình, tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét sửa đổi,
bổ sung hoặc ban hành văn bản mới nhằm thúc đẩy công tác dân số và kế hoạch hoá
gia đình;
- Chủ trì, phối hợp với Sở Nội
vụ tiếp tục rà soát công tác tổ chức, biên chế, báo cáo cấp có thẩm quyền xem
xét bổ sung biên chế cán bộ làm công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình các cấp.
Hướng dẫn các tiêu chuẩn, chế độ, chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ làm công
tác dân số và kế hoạch hoá gia đình theo quy định hiện hành;
- Chủ trì, phối hợp với Sở Văn
hoá, Thể thao và Du lịch và các cơ quan liên quan tổ chức triển khai lồng ghép
đưa chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình vào trong quy ước xây dựng gia
đình văn hoá, làng, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị văn hoá;
- Tăng cường kiểm tra, thanh
tra việc chấp hành pháp luật, chính sách về dân số của các tổ chức và cá nhân;
xử lý nghiêm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi;
- Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra
và định kỳ báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về việc triển khai thực hiện Đề
án này.
2. Trách nhiệm của các cấp, các
ngành liên quan:
- Sở Nội vụ: chủ trì và phối hợp
với các ngành, các địa phương kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân số - kế
hoạch hoá gia đình từ tỉnh đến cơ sở, đảm bảo đủ biên chế, lao động để bộ máy đủ
mạnh nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình;
- Sở Kế hoạch và Đầu tư: chủ
trì, phối hợp với Sở Tài chính và Sở Y tế tăng cường lồng ghép các nội dung, chỉ
tiêu dân số và kế hoạch hoá gia đình vào các chương trình phát triển kinh tế -
xã hội; bố trí nguồn vốn của Trung ương và tỉnh đầu tư
cho công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình;
- Sở Tài chính: tham mưu bố
trí kinh phí để đảm bảo thực hiện theo đúng tiến độ và có hiệu quả các hoạt động
của Chương trình mục tiêu quốc gia dân số - kế hoạch hoá gia đình và Đề án được
duyệt;
- Sở Thông tin và Truyền thông:
chủ trì, phối hợp với Sở Y tế hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan thông tin đại
chúng tổ chức các hoạt động truyền thông sâu rộng về chính sách dân số và kế hoạch
hoá gia đình, tăng cường thời lượng phát sóng, số lượng bài viết và nâng cao chất
lượng nội dung, hình thức tuyên truyền về dân số, sức khoẻ sinh sản, kế hoạch
hoá gia đình trong các chương trình, chuyên trang, chuyên mục;
- Sở Giáo dục và Đào tạo: chỉ đạo
triển khai có hiệu quả hoạt động giáo dục dân số, sức khoẻ sinh sản, giới và giới
tính trong nhà trường;
- Sở Lao động - Thương binh và Xã hội: có trách
nhiệm lồng ghép nội dung dân số vào các chương trình giảm nghèo và việc làm;
- Sở Tư pháp: chủ trì, phối hợp với
Sở Y tế và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố tăng cường công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật về dân số và kế hoạch hoá gia đình trong toàn dân;
- Các sở, ngành khác có trách nhiệm
tham gia thực hiện Đề án trong phạm vi nhiệm vụ được giao.
3. Ủy ban nhân dân các huyện,
thành phố:
- Phối hợp với Sở Y tế tiếp tục
ổn định và kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác dân số và kế hoạch
hoá gia đình ở địa phương; đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của cấp ủy Đảng,
chính quyền đối với công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình; đồng thời, đảm bảo
sự chỉ đạo thống nhất của ngành Y tế (Chi cục Dân số và kế hoạch hoá gia đình)
về quản lý, điều hành và hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ;
- Tập trung chỉ đạo, tổ chức triển
khai có hiệu quả các nội dung về dân số và kế hoạch hoá gia đình tại địa
phương; lồng ghép có hiệu quả chương dân số và kế hoạch hoá gia đình với các
chương trình kinh tế - xã hội khác trên địa bàn. Những địa phương có mức sinh,
tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao và chưa ổn định, cần tập trung chỉ đạo để sớm
đạt được mức sinh thay thế.
4. Đề nghị
Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh và các tổ chức thành viên: Hội liên hiệp
Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, … trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ của mình tăng cường tuyên truyền, vận động hội viên và các tầng
lớp nhân dân thực hiện tốt chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; đồng thời
tham gia giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về dân số và kế hoạch
hoá gia đình.