THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
138/1998/QĐ-TTg
|
Hà
Nội, ngày 31 tháng 7 năm 1998
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ về
tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Phê duyệt Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm với
những nội dung cụ thể sau:
1. Mục tiêu Chương trình.
a) Tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ
về trật tự an toàn xã hội, giữ vững kỷ cương pháp luật, xây dựng một môi trường
sống lành mạnh, nếp sống và làm việc theo pháp luật; làm giảm một cách cơ bản
các loại tội phạm, phục vụ có hiệu quả công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
b) Từ năm 1998 đến năm 2000: Làm
giảm tội phạm nói chung và làm giảm cơ bản các loại tội phạm nghiêm trọng nói
riêng.
c) Từng bước xây dựng môi trường
sống lành mạnh tại các cộng đồng dân cư, trong các nhà trường và gia đình, tạo
ra những chuyển biến rõ rệt về trật tự an toàn xã hội. Nâng cao ý thức tôn trọng
pháp luật trong cộng đồng và đẩy mạnh tính chủ động, sáng tạo của các cấp cơ sở
trong công tác phòng, chống tội phạm.
d) Kết hợp chặt chẽ công tác
phòng ngừa và chủ động tấn công trấn áp tội phạm, trước hết ở các địa bàn trọng
điểm, các đô thị. Tổ chức giáo dục có hiệu quả đối với những người phạm tội,
giúp họ nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng xã hội.
đ) Từng bước làm giảm các loại tội
phạm có sử dụng bạo lực, đặc biệt là các tội phạm giết người, cướp tài sản, hiếp
dâm, chống người thi hành công vụ, các tội phạm xâm hại trẻ em, bắt cóc và mua
bán phụ nữ, trẻ em, lôi kéo trẻ em vào con đường sử dụng và nghiện hút ma túy,
tội phạm người chưa thành niên và các loại tội phạm có tổ chức, có sử dụng vũ
khí hoặc có tính chất côn đồ, hung hãn. Kiên quyết truy bắt bọn tội phạm còn lẩn
trốn, thực hiện triệt để công tác thi hành án hình sự.
e) Nâng cao hiệu lực điều hành,
quản lý của Chính phủ và chính quyền các cấp trong công tác quản lý hành chính
Nhà nước về trật tự xã hội và phòng, chống tội phạm.
2. Nội dung Chương trình:
a) Phát động quần chúng nhân dân
tham gia phát hiện tố giác tội phạm; cảm hóa, giáo dục người phạm tội tại cộng
đồng dân cư; vận động người phạm tội ra tự thú và truy bắt bọn tội phạm có lệnh
truy nã.
b) Tuyên truyền, giáo dục pháp
luật về phòng, chống tội phạm nhằm nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của công
dân về bảo vệ an ninh, trật tự xã hội.
c) Triển khai đồng bộ các biện
pháp phòng ngừa tội phạm ở các cộng đồng dân cư, trong từng hộ gia đình, trong
các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội,
các đơn vị lực lượng vũ trang.
d) Đấu tranh chống các loại tội
phạm có tổ chức, tội phạm có tính quốc tế, tội cướp, cướp giật và các hành vi
côn đồ hung hãn, các tội hiếp dâm trẻ em, bắt cóc và mua bán phụ nữ, trẻ em, tội
phạm người chưa thành niên, tội chống người thi hành công vụ.
đ) Nâng cao chất lượng công tác
giáo dục, cải tạo người phạm tội và tạo điều kiện để họ tái hòa nhập vào cộng đồng
xã hội.
e) Xây dựng và hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tội phạm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn.
g) Tổ chức thực hiện hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, nhất là chống các tội phạm có tính quốc
tế và tội phạm là người Việt Nam ở nước ngoài.
3. Các Đề án chủ yếu của Chương
trình.
a) Đề án thứ nhất: Phát động
toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm; cảm hóa, giáo dục, cải
tạo người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư.
Tập trung vào việc phát động
toàn dân xây dựng thôn xóm, đường phố, cơ quan, đơn vị an toàn; xây dựng gia
đình văn hóa mới, hòa giải các mâu thuẫn, phòng ngừa, đấu tranh với các hành
vi, vi phạm pháp luật, gắn với phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống
mới, quan tâm giáo dục phòng ngừa tội phạm trong thanh, thiếu niên, tội phạm giết
người do nguyên nhân xã hội.
Tăng cường quản lý xã hội ở cơ sở
như quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, quản lý tạm trú, tạm vắng, phát động phong trào
toàn dân tham gia phát hiện, tố giác tội phạm ở cơ sở xã, phường. Xây dựng hệ
thống tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm ở cơ sở. Tổ chức vận động người phạm tội
ra tự thú, tự báo.
Tổ chức vận động toàn dân tham
gia quản lý giáo dục người vi phạm pháp luật tại cộng đồng dân cư; tổ chức hướng
nghiệp, giúp đỡ tạo việc làm, lôi cuốn họ cải tạo họ thành người lương thiện,
tái hòa nhập cộng đồng xã hội; phát động các tổ chức đoàn thể xã hội như thanh
niên, phụ nữ, mặt trận, gia đình bảo lãnh, cam kết giáo dục thanh niên hư, chậm
tiến. Tổ chức quản lý số đối tượng bị quản chế, cấm cư trú, cải tạo không giam
giữ, bị kết án tù nhưng cho hưởng án treo ... không để họ tái phạm tội.
Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam chủ trì, Bộ Công an, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các Bộ, ngành khác tham gia.
b) Đề án thứ hai: Xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tội phạm; tăng cường tuyên truyền giáo dục
pháp luật và trách nhiệm công dân về bảo vệ an ninh trật tự.
Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ
sung và xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong đó chú trọng việc nghiên cứu để đề xuất sửa đổi,
bổ sung Bộ Luật hình sự, Bộ Luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính cho phù hợp với thực tiễn phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền
giáo dục pháp luật về trách nhiệm công dân trong bảo vệ an ninh, trật tự trên
truyền thanh, truyền hình và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Đưa nội
dung bảo vệ an ninh, trật tự, phòng, chống tội phạm vào chương trình giáo dục bắt
buộc trong hệ thống nhà trường các cấp.
Bộ Tư pháp chủ trì, Bộ Công an, Bộ
Văn hóa - Thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,
Tòa án Nhân dân tối cao, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam tham
gia.
c) Đề án thứ ba: Đấu tranh
phòng, chống các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm hình sự nguy hiểm và tội phạm
có tính quốc tế.
Tập trung đấu tranh ngăn chặn,
phòng, chống các tội phạm có tổ chức hoạt động thành băng, ổ, nhóm, bọn tội phạm
chuyên nghiệp, bảo kê nhà hàng, xiết nợ thuê; các tội phạm giết người cướp tài
sản, cướp giật, hiếp dâm, tội phạm chống người thi hành công vụ; các tội phạm
có tính quốc tế như: lừa đảo quốc tế, buôn lậu, rửa tiền, cướp biển, khủng bố,
tội phạm của người Việt Nam ở nước ngoài ... Tổ chức truy bắt những tên tội phạm
có lệnh truy nã.
Bộ Công an chủ trì, Bộ Quốc phòng,
Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Ngoại
giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành khác tham gia.
d) Đề án thứ tư: Đấu tranh
phòng, chống các loại tội xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi vị thành
niên.
Tập trung vào việc ngăn chặn,
phòng, chống các tội phạm xâm hại trẻ em như giết trẻ em, hiếp dâm trẻ em, cưỡng
dâm trẻ em, tổ chức mại dâm trẻ em, tổ chức cho trẻ em dùng chất ma túy ...
ngăn chặn, phòng chống tình trạng người chưa thành niên phạm tội trong nhà trường
và ngoài xã hội.
Bộ Công an chủ trì, ủy ban Bảo vệ
và chăm sóc trẻ em Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các Bộ, ngành khác tham
gia.
4. Để thực hiện tốt các Đề án
trên, Bộ Công an chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành cần phải nghiên cứu và tổ
chức thực hiện các nội dung sau:
- Tiến hành điều tra cơ bản,
đánh giá thực trạng tình hình tội phạm ở Việt Nam, phân tích nguyên nhân điều
kiện phát sinh tội phạm, dự báo tình hình phát triển của tội phạm từ nay đến
năm 2000 và giai đoạn tiếp theo.
Nghiên cứu thiết lập một hệ thống
thống kê tội phạm hình sự thống nhất trong toàn quốc; tổ chức hệ thống các cơ
quan nghiên cứu khoa học về dự báo tội phạm và phòng chống tội phạm.
- Nâng cao hiệu quả công tác
giam giữ, giáo dục cải tạo người phạm tội, tổ chức dạy nghề, mở rộng mô hình
các trung tâm dạy nghề cho phạm nhân và xúc tiến việc làm cho họ sau khi mãn hạn
tù nhằm giúp người phạm tội mau chóng tái hòa nhập cộng đồng xã hội.
- Xây dựng và củng cố hệ thống tổ
chức chính trị ở cơ sở; tập trung củng cố tổ chức chính quyền và các đoàn thể ở
phường, xã. Triển khai đồn công an, xây dựng công an phường, xã là lực lượng bảo
vệ an ninh, trật tự ở cơ sở. Khôi phục và phát triển lực lượng bảo vệ dân phố,
dân phòng, tổ trưởng dân phố, trưởng thôn, già làng, tộc trưởng để tổ chức vận
động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh trật tự, phòng, chống tội phạm ở cơ sở
khẩn trương hoàn chỉnh dự án pháp lệnh về lực lượng công an xã, phường để trình
ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành và nghiên cứu đề xuất, chế độ, chính sách đối
với công an xã, phường.
- Nghiên cứu cải tiến tổ chức,
trang bị phương tiện và bổ sung chế độ chính sách đối với lực lượng công an và
các cơ quan bảo vệ pháp luật khác trong công tác phòng, chống tội phạm .
- Xây dựng chương trình hoạt động
văn hóa, nghệ thuật và truyền thông phục vụ phòng, chống tội phạm. Chống văn
hóa phẩm độc hại lưu hành trong xã hội và có các hình thức xử lý nghiêm đối với
các trung tâm, các điểm buôn bán và cho thuê băng video, sách báo có nội dung đồi
trụy, hoặc kích động bạo lực ...
5. Tổ chức thực hiện Chương
trình:
Thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện
Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm do Phó Thủ tướng Thường trực Chính
phủ làm Trưởng ban, Bộ trưởng Bộ Công an làm Phó Trưởng ban, Thứ trưởng Bộ Công
an phụ trách cảnh sát nhân dân làm ủy viên thường trực; Thứ trưởng các Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Tư pháp, Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn hóa - Thông tin, Giáo
dục và Đào tạo, Tài chính, ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em là ủy viên. Mời đại
diện lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ban Nội
chính Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân tập thể, Hội Cựu chiến binh
Việt Nam tham gia Ban Chỉ đạo.
Ban chỉ đạo thực
hiện Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm có nhiệm vụ điều hành, kiểm
tra, hướng dẫn, đôn đốc các Bộ, ngành, các địa phương thực hiện Chương trình;
quản lý vốn và kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp cho việc thực hiện Chương
trình; là đầu mối trong việc hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm.
Cơ quan thường trực giúp việc
cho Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm đặt tại Bộ
Công an do đồng chí Thứ trưởng Bộ Công an phụ trách cảnh sát nhân dân là ủy
viên Thường trực trực tiếp chỉ đạo.
Các Bộ, ngành, cơ quan là thành
viên của Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, có
nhiệm vụ nghiên cứu các Đề án đấu tranh phòng, chống tội phạm dưới sự điều hành
của Ban chỉ đạo và cử chuyên viên tham gia Cơ quan thường trực giúp việc cho
Ban Chỉ đạo.
- Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm do
Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân làm Trưởng ban, các thành viên tương ứng như Ban
Chỉ đạo của Chính phủ, giúp ủy ban nhân dân các tỉnh chỉ đạo thực hiện Chương
trình quốc gia phòng, chống tội phạm ở địa phương.
6. Phân công trách nhiệm.
- Bộ Công an là cơ quan đầu mối
chủ trì việc phối hợp các hoạt động theo Chương trình quốc gia phòng, chống tội
phạm. Trực tiếp phối hợp với các Bộ, ngành, đoàn thể quần chúng nhân dân tổ chức
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phối hợp với các ngành kiểm sát, tòa án, điều
tra, truy tố, xét xử kịp thời các vụ án hình sự.
- Bộ Quốc phòng có trách nhiệm
kiểm tra chặt chẽ việc quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trong quân đội, phối
hợp với Bộ Công an kiểm tra công tác quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trong
các ngành, các cơ quan, đơn vị ngoài quân đội; tổ chức thu hồi vũ khí, vật liệu
nổ tàng trữ trái phép; chỉ đạo bộ đội chủ lực, bộ đội biên phòng, bộ đội địa
phương và dân quân tự vệ phối hợp với lực lượng Công an nhân dân trong phòng,
chống tội phạm.
- Bộ Văn hóa - Thông tin phối hợp
các ngành đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục ý thức và lối sống theo pháp luật cho
nhân dân. Thông qua các loại hình văn hóa nghệ thuật, tuyên truyền rộng rãi để
các tầng lớp nhân dân thấy tác hại của các loại tội phạm, tệ nạn xã hội và các
vi phạm pháp luật khác. Vận động nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh
chống những hiện tượng không lành mạnh trong văn hóa, báo chí, văn nghệ, vi phạm
các quy tắc xuất bản, phát hành, chiếu phim, truyền hình. Kết hợp với Bộ Công
an kiên quyết bài trừ các văn hóa phẩm đồi trụy, bạo lực.
- Bộ Tư pháp chủ trì việc nghiên
cứu và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tội phạm, đẩy mạnh công tác tuyên
truyền và giáo dục pháp luật. Phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng
nói Việt Nam mở chuyên mục ''tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật'' thường
xuyên trên sóng truyền hình và truyền thanh.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo tuyên
truyền và đưa nội dung bảo vệ an ninh trật tự, phòng, chống tội phạm vào chương
trình giáo dục trong hệ thống nhà trường các cấp, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ
Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án Nhân dân tối cao, đổi mới hoàn
thiện chương trình đào tạo cử nhân luật, cán bộ điều tra, kiểm sát, thẩm phán
phù hợp với tình hình mới. Trong năm học 1998 - 1999 đưa nội dung giới thiệu Luật
Hình sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và các pháp luật khác có liên quan
vào chương trình bắt buộc tại các trường phổ thông, trung học, đại học trong
toàn quốc. Trực tiếp chủ trì công tác giáo dục giảng dạy pháp luật về bảo vệ an
ninh, trật tự, phòng, chống tội phạm trong nhà trường.
- Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội chỉ đạo đưa Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm cho các đối tượng
là phạm nhân, đối tượng thuộc Trường Giáo dưỡng hết hạn về địa phương, dạy nghề
cho các đối tượng đang bị giam giữ trong các trại giam, các cơ sở giáo dục và
Trường Giáo dưỡng.
- Bộ Tài chính có trách nhiệm bảo
đảm kinh phí cho Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm; phối hợp với Bộ
Công an nghiên cứu đề xuất Chính phủ bảo đảm kinh phí, trang bị phương tiện và
từng bước hiện đại hóa các lực lượng điều tra tội phạm và các cơ quan bảo vệ
pháp luật khác cũng như bảo đảm chế độ, chính sách cho cán bộ các cơ quan bảo vệ
pháp luật; đầu tư kinh phí cho việc củng cố các trụ sở, phòng xử án, phương tiện
làm việc cho các cơ quan tòa án, kiểm sát, thi hành án và hệ thống các trại
giam thuộc Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quản lý.
- Các đồng chí thành viên Ban chỉ
đạo thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm của các Bộ, ngành có
trách nhiệm chỉ đạo công tác phòng, chống tội phạm gắn liền với việc triển khai
thực hiện các kế hoạch xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và phải coi
đây là một nhiệm vụ quan trọng thường xuyên trong chức năng hoạt động quản lý của
mình.
- Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo công tác phòng, chống tội phạm
tại địa phương; lập các Đề án tổ chức đấu tranh và báo cáo định kỳ (6 tháng,
hàng năm) và báo cáo các vấn đề đột xuất trong quá trình thực hiện về Ban chỉ đạo
thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm.
7. Quản lý vốn,
kinh phí và các khoản tài trợ để thực hiện Chương trình
Vốn, kinh phí và các khoản tài
trợ của Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm được huy động từ nhiều nguồn:
- Từ ngân sách Nhà nước (Chính
phủ cấp).
- Kết hợp lồng ghép với các
Chương trình, Dự án khác trên địa bàn cụ thể (Chương trình việc làm, Chương
trình phát triển y tế, văn hóa, giáo dục, các Chương trình kinh tế ...).
- Từ các nguồn khác trong và
ngoài nước (Viện trợ quốc tế, đóng góp tự nguyện ...).
Vốn do ngân sách Nhà nước cấp
hàng năm do Thường trực Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống
tội phạm lập kế hoạch phân bổ trình Chính phủ quyết định và trực tiếp chỉ đạo tổ
chức thực hiện. Các nguồn kinh phí khác Bộ Công an sẽ phối hợp với các ngành,
các chương trình, dự án liên quan và các tổ chức, cơ quan tài trợ để tổ chức thực
hiện tại các địa bàn và trong lĩnh vực cụ thể.
Điều 2.
Giao Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình quốc gia
phòng, chống tội phạm xây dựng kế hoạch, đề án thực hiện các mục tiêu, nội dung
của Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm và Nghị quyết của Chính phủ về
tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
có trách nhiệm tổ chức thực hiện, kiểm tra, theo dõi, đôn đốc thực hiện Chương
trình một cách chặt chẽ xây dựng kế hoạch 5 năm, hàng năm để thực hiện Chương
trình và các dự án một cách phù hợp.
Điều 3.
Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký.
Trưởng Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, các Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch
ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành
Quyết định này.