ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số :
133/2005/QĐ-UBND
|
Đà
Lạt, ngày 04 tháng 07 năm 2005
|
QUYẾT ĐỊNH
V/V BAN HÀNH ĐỀ ÁN ĐỔI
MỚI QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH - DỊCH VỤ
DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG ĐẾN NĂM 2010
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Căn cứ
Luật tổ chức HĐND và UBND ngày 26/1l/2003;
- Căn cứ
Quyết định số 63/2004/QĐ-UB ngày 07/4/2004 của UBND tỉnh Lâm Đồng về
việc phê duyệt Đề án đổi mới tổ chức và quản lý thu thuế của
ngành thuế Lâm Đồng đến năm 2010;
- Xét đề
nghị của Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Lâm Đồng tại Tờ trình số
747/TT-CT ngày 21/6/2005,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1.
Ban hành
kèm theo Quyết định này Đề án Đổi mới quản lý thu thuế đối với
hoạt động kinh doanh du lịch - dịch vụ trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đến
năm 2010.
Điều 2.
Giao Cục
trưởng Cục Thuế căn cứ nội dung đề án đã được ban hành xây dựng kế
hoạch triển khai thực hiện. Đồng thời hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc
thực hiện theo đúng quy định.
Giám đốc
các Sở: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Du Lịch và Thương mại và
các sở ban, ngành có liên quan; UBND các huyện, Thị xã Bảo Lộc,
thành phố Đà Lạt và các tổ chức, đơn vị có liên quan có trách
nhiệm phối hợp với Cục Thuế tỉnh triển khai thực hiện Đề án kèm
theo quyết định này.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Giám đốc các sở: Tài
chính, Kế hoạch và Đầu tư, Du Lịch và Thương mại; Cục Trưởng Cục
Thuế, Chủ tịch UBND các huyện, Thị xã Bảo Lộc, Thành phố Đà Lạt
và thủ trưởng các ngành, đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi
hành quyết định này./.
|
TM. UỶ BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Trần Quang Thái
|
ĐỀ ÁN
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH DU LỊCH - DỊCH VỤ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẾN NĂM 2010
(Kèm theo Quyết định số 133/2005/QĐ-UB ngày
04/7/2005 của UBND tỉnh Lâm Đồng)
PHẦN THỨ NHẤT
THỰC TRẠNG CÔNG
TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH - DỊCH VỤ DU LỊCH
TRONG CÁC NĂM 2001 – 2004
Du lịch -
Dịch vụ Du lịch là một bộ phận quan trọng của kinh tế du lịch Tỉnh
Lâm Đồng, đã được xác định qua Nghị quyết các kỳ Đại hội của Tỉnh
Đảng bộ và Nghị quyết số 03/NQ-TU ngày 20/11/2001 của Tỉnh uỷ và kế
hoạch số 54/KH-UB ngày 07/01/2002 của UBND Tỉnh Lâm Đồng về phát triển
kinh tế du lịch thời kỳ 2001 - 2005 và định hướng đến năm 2010.
Thực hiện
chủ trương nêu trên, nhiều năm qua Tỉnh đã tập trung tạo mọi điều kiện
cần thiết để đẩy mạnh tốc độ phát triển du lịch và dịch vụ du
lịch. Hệ thống kết cấu hạ tầng đã được chỉnh trang, cải tạo, nâng
cấp bước đầu đã tạo được sự hấp dẫn đối với du khách. Số lượng
khách du lịch hàng năm đến tham quan, nghỉ dưỡng ngày càng tăng, năm
sau cao hơn năm trước. Đây chính là tiền đề để thúc đẩy ngành du lịch
của Lâm Đồng phát triển mạnh mẽ.
Hoạt động
kinh doanh du lịch ngày nay không chỉ đơn thuần là nghỉ dưỡng, mà được
đa dạng hoá ở nhiều loại hình dịch vụ, phục vụ nhu cầu của khách
và ở địa phương đã phát triển nhiều loại hình kinh doanh như: khách
sạn, nhà hàng, ăn uống, tham quan danh lam thắng cảnh, các tour lữ
hành trọn gói và bán hàng đặc sản lưu niệm...từ đó, đã thu hút
được đông đảo lượng khách du lịch đến Lâm Đồng và nguồn thu thuế
ngày càng tăng.
I. Kết quả thực hiện quản lý thu thuế qua các năm
2001 - 2004:
1. Hoạt động kinh doanh khách sạn nhà nghỉ:
Tính đến 31/12/2004
số lượng khách sạn nhà nghỉ trên địa bàn Lâm Đồng có 522 doanh
nghiệp, hộ kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ; Trong đó DNNN và cổ phần
hoá DNNN nắm giữ hơn 50% vốn với 26 DNNN, 1 DN ĐTNN; 495 DNNQD (2 Công ty
cổ phần, 12 công ty T'NHH; 217 Doanh nghiệp tư nhân; 2 cơ sở là tổ chức
kinh tế), 3 HTX có 151 khách sạn, nhà nghỉ và 111 hộ kinh doanh cá
thể. Ngoài ra còn có hơn 800 nhà trọ sinh viên.
- Số lượng
khách sạn, nhà nghỉ tuy nhiều nhưng quy mô còn nhỏ, lẻ, chất lượng
phục vụ chưa cao, chỉ có một số khách sạn,.nhà nghỉ mới xây dựng
trong các năm gần đây là đáp ứng được nhu cầu về chất lượng, tiêu
chuẩn. Hệ thống nhà nghỉ trong các hợp tác xã đông về số lượng nhưng
khả năng cạnh tranh, chất lượng dịch vụ còn ở trình độ thấp, môi
trường kinh doanh trong lĩnh vực lưu trú còn diễn biến phức tạp.
- Cơ sở vật
chất của hệ thống cơ sở lưu trú có bước chuyển biến về số lượng
nhưng chất lượng và trình độ, phong cách phục vụ của các doanh
nghiệp kinh doanh, khách sạn nhà nghỉ, đặc biệt là các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh còn hạn chế, lực lượng lao động được quan tâm bồi
dưỡng nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập kinh
tế quốc tế.
- Lượng
khách du lịch đến tham quan Đà Lạt không có tính ổn định, phụ thuộc
theo mùa, thường tập trung quá đông vào các thời điểm Lễ, Tết trong
khi lượng nhà nghỉ khách sạn không cung ứng đủ. Chính quyền địa.
phương cho phép nhân dân tận dụng các phòng ốc của nhà mình sửa sang
lại để đón khách.
- Do thường
xuyên xảy ra khủng hoảng thừa và thiếu chỗ ở, dẫn đến việc cạnh
tranh hết sức gay gắt, tạo nên một môi trường kinh doanh thiếu lành
mạnh. Việc giảm giá, chi tiền môi giới cao cho những người dẫn khách
đã làm tăng chi phí của các khách sạn, nhà nghỉ dẫn đến việc chủ
khách sạn, nhà nghỉ tìm mọi cách để trốn thuế như: đăng ký không đủ
lượng khách nghỉ, ghi hoá đơn không đúng giá thực tế để dấu doanh
thu...nhằm trốn thuế.
Kết
quả quản lý thu thuế các năm từ 2001 đến 2004:
Năm
Tổng số ngày khách Doanh
thu
Số
thuế tỷ
trọng/
Lưu
trú
(1000đ)
Thuế phí
2001
972.396
51.906.091
5.289.573 1,8%
2002
1.256.249
64.612.828
6.161.965 1,9%
2003
1.484.551
69.641.635
6.401.206 1,5%
2004
1.621.770
88.693.339
8.939.065 1,5%
Qua quản lý
thu thuế các năm 2001-2004 ở lĩnh vực khách sạn-nhà nghỉ, thì :
- Số ngày
khách lưu trú hàng năm đều tăng so năm trước: Năm 2002 bằng 129% so năm
2001; Năm 2003 bằng 118% so năm 2002; Năm 2004 bằng 109% so năm 2003;
- Doanh thu kê
khai tính thuế năm 2002 bằng 125% so năm 2001; Doanh thu năm 2003 bằng 108%
so năm 2002; Doanh thu năm 2004 bằng 127% so năm 2003;
- Số thuế
năm sau đều tăng so năm trước: Năm 2001 chiếm tỷ trọng 1,8% trên tổng số
thu về thuế phí; Năm 2002 tăng 16% so năm 2001, chiếm tỷ trọng 1,9% trên
tổng số thu về thuế phí; Năm 2003 tăng 4% so năm 2002, chiếm tỷ trọng
1,5% trên tổng số thu về thuế phí; Năm 2004 tăng 40%, chiếm tỷ trọng
1,5% trên tổng số thu về thuế phí.
2. Các loại hình hoạt động dịch vụ du lịch
khác:
Bên cạnh
hoạt động khách sạn, nhà nghỉ thì các loại hình dịch vụ du lịch
của Tỉnh cũng đã có bước phát triển; Tuy nhiên, trong thời gian qua
hoạt động này phát triển chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh sẵn
có; chất lượng sản phẩm du lịch chưa cao, loại hình du lịch còn đơn
điệu, khả năng cạnh tranh thấp, chưa tạo được nền tảng vững chắc cho
sự phát triển nhanh và bền vững; tốc độ tăng trưởng bình quân của
ngành tuy có tăng nhưng chưa mang tính đột phá và chưa đạt so với mục
tiêu mà Tỉnh đã đề ra, mức đóng góp của ngành dịch vụ - du lịch
vào GDP còn thấp. Riêng năm 2004 tổng doanh thu về du lịch và dịch vụ
đạt 897 tỷ đồng (trong đó riêng đối với lĩnh vực du lịch và dịch vụ
mang tính chất phục vụ du lịch có doanh thu 530 tỷ đồng chiếm tỷ
trọng 10,5% GDP của Tỉnh và thuế đã huy động vào NSNN 45,9 tỷ đồng,
chiếm 5,08% tổng thu NSNN, chiếm 7,83% trong tổng thu về thuế phí; Trong
đó tổng doanh thu dịch vụ 441 tỷ đồng, thuế đã nộp vào NSNN là 37
tỷ đồng.
Kết
quả quản lý thu thuế hoạt động dịch vụ năm 2004:
Loại dịch
vụ
Doanh thu
Số thuế
tỷ trọng/
(tỷ
đ)
(tỷ
đ)
Thuế phí
- Ăn
uống
161,0
12,4
2,12%
-
Massage-Karaoke
3,3
0,7
0,12%
- ảnh
màu
4,7
0,5
0,09%
- Tham
quan
16,0
0,8
0,14%
Tổng:
185
14,4
2,45%
Như vậy, tính riêng
năm 2004 thu từ hoạt động kinh doanh du lịch và dịch vụ du lịch được
23,4 tỷ, chiếm 4% tổng thu về thuế phí.
II.
Nguyên nhân đạt được trong công tác quản lý:
- Thường xuyên được
sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh uỷ và UBND Tỉnh trong hoạt động du lịch
- dịch vụ du lịch, sự phối hợp tương đối tốt của các ngành liên quan
trong công tác quản lý thu thuế.
- Luật Doanh nghiệp
tạo sự thông thoáng trong kinh doanh, UBND Tỉnh đã ban hành quyết định
07/2000/QĐ-UB ngày 13/1/2000 " Bãi bỏ các quyết định về giá buồng
phòng đối với các cơ sở kinh doanh lưu trú khách du lịch trên địa bàn
Tỉnh Lâm Đồng". Khẳng định việc bãi bỏ các quyết định giá tối
thiểu vào năm 2000 là phù hợp, tạo sự tự chủ trong kinh doanh dịch
vụ lưu trú và phù hợp với quy luật cạnh tranh của cơ chế thị
trường; Ngay sau khi UBND tỉnh bãi bỏ giá buồng phòng tối thiểu để
các cơ sở kinh doanh tự định giá buồng phòng cho thuê, Cơ quan Thuế đã
kịp thời có hướng dẫn thống nhất thực hiện các biện pháp quản lý
như kê khai đăng ký niêm yết giá, đăng ký khách.
- Nhằm tăng cường
sự quản lý nhà nước mọi mặt về hoạt động du lịch trên địa bàn.
UBND Tỉnh đã chỉ đạo Cục thuế Lâm Đồng tiến hành phân cấp các DN
hoạt động khách sạn, nhà nghỉ cho các địa phương quản lý; Đồng thời
ngành thuế đã thành lập các đội thuế chuyên quản lý các doanh
nghiệp, hộ kinh doanh hoạt động du lịch - dịch vụ du lịch để đảm bảo
việc quản lý tập trung và phối hợp với các ban ngành của huyện,
thị thành trong việc hướng dẫn, kiểm tra, kiểm soát để đưa hoạt động
kinh doanh này đi vào nề nếp, chống thất thu cho ngân sách Nhà nước.
- Qua việc phân loại
khách sạn nhà nghỉ chia thành các hạng khách sạn đạt tiêu chuẩn sao
và các nhà nghỉ khách sạn theo loại A, B, C theo thang điểm của Tổng
cục Du lịch và thực hiện Nghị định 39/2000/NĐ-CP về phân loại, hạng
cơ sở lưu trú, ngành du lịch đã phối hợp với các ngành cơ bản thực
hiện tốt công tác phân hạng cơ sở lưu trú trên địa bàn Tỉnh, tính
đến nay đã phận hạng được 45 khách sạn đạt tiêu chuẩn sao và 358 cơ
sở lưu trú đạt tiêu chuẩn tối thiểu. Trên cơ sở đó cơ quan thuế có
căn cứ để tổ chức quản lý thu thuế, xác định giá cả dịch vụ phù
hợp.
- Các ngành chức
năng như cơ quan Công an, Quản lý thị trường, thuế đã tiến hành phối
hợp thực hiện kiểm tra việc chống quay vòng vé ở các điểm tham quan;
kiểm tra việc niêm yết giá và thực hiện thu đúng giá niêm yết khi
cung cấp dịch vụ lưu trú của các cơ sở kinh doanh, phát hiện và xử
lý kịp thời các trường hợp vi phạm. Việc kiểm tra đột xuất góp
phần ngăn chặn việc dấu khách, dấu doanh thu để trốn thuế của các cơ
sở kinh doanh.
III.
Những tồn tại và hạn chế trong công tác quản lý.
Bên cạnh những kết
quả đạt được trên đây; thì trong thực tế hoạt động kinh doanh du lịch
- dịch vụ du lịch còn những mặt hạn chế tồn tại trong công tác quản
lý thuế, đó là:
- Việc thực hiện
nguyên tắc tự kê khai, tự tính thuế và nộp thuế của các doanh nghiệp
đã nâng cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cơ sở kinh doanh.
Nhưng bên cạnh đó các cơ sở kinh doanh thường đăng ký giá thấp hơn giá
thực tế thu của khách hàng và đã xuất hoá đơn không trung thực nhằm
mục đích trốn thuế.
- Công tác kiểm tra
hoạt động kinh doanh du lịch - dịch vụ du lịch, đặc biệt là kinh doanh
khách sạn nhà nghỉ chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan
chức năng liên quan, không kịp thời và hiệu quả không cao; Mặt khác
doanh nghiệp lợi dụng sự thông thoáng của Luật doanh nghiệp để tránh
sự kiểm tra, qua đó thực hiện dấu khách không đăng ký, dấu doanh thu,
ghi hoá đơn không đúng với giá thực thu của khách hàng; cơ sở kinh
doanh tự nâng giá ăn uống, quay vòng vé ở các điểm tham quan, massage.
.. diễn ra thường xuyên nhưng chưa có biện pháp kiểm tra xử lý.
- Các loại hình du
lịch dịch vụ khác ngoài hoạt động kinh doanh lưu trú như du lịch sinh
thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch hội nghị - hội thảo chưa được quản
lý chặt chẽ.
- Việc Luật thuế
khống chế các khoản chi phí tiếp thị, quảng cáo không vượt 10% trên
tổng chi phí cũng làm cho việc quảng bá du lịch nhằm thu hút khách
về địa phương bị hạn chế. Các ngành trong Tỉnh như Sở KH& ĐT, Công
an Tỉnh, Thuế, UBND huyện, thị xã, thành phố chưa có quy chế phối
hợp liên ngành trong công tác hậu kiểm để thẩm định năng lực thực tế
của doanh nghiệp.
IV.
Những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn quản lý ở địa phương:
- Đối với những
lĩnh vực khá nhạy cảm như hoạt động kinh doanh du lịch - dịch vụ,
một mặt phải đảm bảo tranh thủ cảm tình của du khách đối với địa
phương, mặt khác phải đảm bảo cho yêu cầu công tác quản lý của ngành
chức năng, đồng thời phải đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Do đó đòi hỏi
phải được sự quan tâm chỉ đạo của cấp uỷ và chính quyền địa phương,
sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ
sở.
- Hoạt động kinh
doanh du lịch - dịch vụ du lịch, đặc biệt là kinh doanh lưu trú là
một lĩnh vực hoạt động thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia.
Trong đó khu vực NQD trong các năm gần đây đã phát triển một cách ồ
ạt không có một quy hoạch định hướng nên việc cạnh tranh, giành giật
khách nhất là đối với những cơ sở kinh doanh vay tiền ngân hàng đê
đầu tư thì bằng mọi cách thu hút nguồn khách về cho mình qua các
thủ thuật đón khách thông qua "cò du lịch", hoặc chi tiền cho
người môi giới, chi cho lái xe, lãnh đạo các đoàn khách, đã làm tăng
chi phí kinh doanh. Từ đó cơ sở tìm mọi cách dấu khách, dấu doanh
thu, trốn thuế để vừa bù đắp vào những khoản chi phí đó vừa bảo
đảm có được lợi nhuận. Vì vậy quản lý thu thuế đối với các cơ sở
kinh doanh khách sạn - nhà nghỉ trong tình hình hiện nay là rất khó
khăn, yêu cầu chính quyền địa phương các cấp, cơ quan thuế và các
ngành liên quan phải kiên trì và thường xuyên tổ chức kiểm tra việc
tuân thủ các quy định về thực hiện đăng ký giá, đăng ký khách lưu
trú cũng như việc kê khai thuế hàng tháng của các cơ sở.
- Để các cơ sở
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước, kê khai giá sát đúng với
thực tế kinh doanh thì cần phải thông qua các hoạt động của hiệp hội
du lịch, các Hợp tác xã dịch vụ du lịch, hiệp hội ngành nghề có
liên quan đến du lịch... để vừa nắm chắc các hoạt động của chủ doanh
nghiệp khách sạn, trên cơ sở tiếp tục bổ sung các biện pháp quản lý
các hoạt động như du lịch dã ngoại, du lịch sinh thái, du lịch nhà
vườn, trọn gói và các dịch vụ khác như ăn uống, massage, karaoke, ảnh
màu, tham quan....
PHẦN THỨ HAI
NHỮNG NỘI
DUNG ĐỔI MỚI VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THU THUẾ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH DU LỊCH - DỊCH VỤ ĐẾN NĂM 2010
I.
Mục tiêu phát triển kinh tế và quản lý thu thuế đối với du lịch và
dịch vụ du lịch từ nay đến năm 2010:
- Đưa kinh tế du
lịch phát triển theo hướng nhanh và bền vững, tập trung đầu tư phát
triển Đà Lạt - Lâm Đồng trở thành một trung tâm du lịch Quốc gia và
Quốc tế. Quản lý kết hợp giữa quy hoạch chiến lược với quy luật
cung cầu cạnh tranh, nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ du lịch
hiện có, phát triển các sản phẩm mới, nhất là các loại hình du
lịch lữ hành, sinh thái, dã ngoại, văn hoá, du lịch hội nghị, hội
thảo. Sớm đưa ngành du lịch trở thành ngành kinh tế động lực của
Tỉnh, thông qua đó đẩy mạnh việc giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm
công nông nghiệp đặc thù của địa phương.
- Tập trung nguồn
lực đẩy nhanh tốc độ thực hiện các dự án đã được triển khai thực
hiện và các dự án lớn đã được quy hoạch phê duyệt như khu du lịch
trọng điểm Đankia-Suối Vàng, khu hồ Tuyền Lâm, nài voi, khu du lịch
sinh thái Cam Ly - Manline, rừng Đạ Chay, Đạ Sar, khu du lịch thác
Đamb'ri, khu du lịch sinh thái văn hoá Cát Tiên....
- Nâng cao hiệu quả
của các cơ quan quản lý Nhà nước và trách nhiệm của hiệp hội du
lịch gắn lợi ích của người kinh doanh với việc chấp hành đúng chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước về
phát triển kinh tế du lịch, chấm dứt tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh, nâng giá phá giá làm rối loạn thị trường.
- Tăng tích tụ và
tích luỹ vốn để tái đầu tư, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng,
nâng cao chất lượng, mật độ đường giao thông, phát triển mạnh hệ
thống thông tin liên lạc, bảo vệ được môi trường sinh thái.
- Nhanh chóng hiện
đại hoá và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thuế, hạn chế đến
mức thấp nhất các hành vi gian lận thuế, công tác thuế là trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn dân do vậy các cấp, các ngành, hiệp hội
du lịch đều có trách nhiệm cùng ngành thuế thực hiện công tác quản
lý và thu thuế.
- Phấn đấu đến năm
2010 sự đóng góp vào GDP của kinh tế du lịch tăng ít nhất từ 2 đến
2,5 lần so với năm 2005 và thu ngân sách ở lĩnh vực này cũng phải
tăng tương ứng, nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm phải đạt từ 15%
đến 20%.
II.
Nội dung đổi mới:
Xuất phát từ những
kết quả đạt được và tồn tại trong thời gian qua, nhằm đưa hoạt động
kinh doanh du lịch và dịch vụ du lịch hoạt động đúng định hướng, đạt
hiệu quả cao, hạn chế tiêu cực, tăng cường hiệu lực và hiệu quả
quản lý của các cơ quan Nhà Nước - tăng trưởng kinh tế gắn liền với
công bằng xã hội đòi hỏi phải có sự đổi mới hoạt động và quản lý
đối với kinh tế du lịch nhất là trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.
Việc đổi mới tập trung chủ yếu vào một số nội dung sau:
1. Đổi mới cơ
chế quản lý:
Đổi mới cơ chế
quản lý phải trên tinh thần hội nhập, phù hợp với thông lệ quốc tế,
theo hướng mở rộng thị trường phục vụ tối đa cho sự nghiệp phát
triển kinh tế.
- Do kinh tế du lịch
mang tính tự phát, nguồn vốn đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn vốn nhàn
rỗi trong nhân dân, nên để huy động vốn và sử dụng vốn tối ưu cần
phải hoàn thiện hơn nữa chính sách kêu gọi đầu tư và cải thiện môi
trường đầu tư hiện có nhằm thu hút mạnh nguồn vốn trong và ngoài
nước. Môi trường đầu tư phải thông thoáng, hấp dẫn, công khai các khu
quy hoạch du lịch mới, xây dựng tiêu chuẩn và điều kiện tối thiểu
cần có từ cơ sở vật chất - kỹ thuật trên yếu tố con người để tham
gia hoạt động kinh doanh ở lĩnh vực này. Các doanh nghiệp đầu tư mới
phải được hướng ưu đãi đúng, đủ và kịp thời theo quy định chung của
Nhà nước, môi trường pháp lý đầu tư phải đồng bộ, tránh các thủ
tục phiền hà phức tạp nhất là ở các khâu thành lập, cấp phép, nên
tập trung một đầu mối từ Sở Kế Hoạch và Đầu Tư hoặc từ các Ban
Quản Lý Dự án. Các ngành trong Tỉnh với chức năng nhiệm vụ của
mình phải có trách nhiệm trong việc xúc tiến đầu tư quảng bá du
lịch và dịch vụ du lịch của Tỉnh.
- Đối với hoạt
động kinh doanh du lịch sinh thái, du lịch dưới tán rừng, du lịch dã
ngoại danh lam thắng cảnh gắn việc giao đất giao rừng được kinh doanh
ổn định còn phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện về chi phí quản lý
bảo vệ rừng, doanh nghiệp ngoài thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh chính còn quy định doanh nghiệp được hưởng những quyền lợi từ
rừng, đồng thời phải thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ bảo vệ và phát
triển rừng, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Xoá bỏ ngay phương
thức tiếp thị "cò", giành giật khách, thiết lập và lập
lại nét đẹp văn hoá vốn có của người Đà Lạt. Nhằm hạn chế việc
dấu khách, trốn khách, không đăng ký khách, cơ quan Công an mở rộng
nhiều hình thức đăng ký khách như đến đăng ký tại cơ quan Công an, đăng
ký qua mạng thông tin. Sở Thương Mại Du Lịch cần có quy chế hướng dẫn
đăng ký giá và niêm yết giá cụ thể, tránh trường hợp mùa vắng
khách thì hạ giá cho thuê để tranh giành khách, mùa đông khách thì
nâng giá để móc túi khách hàng. Cần xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm chế độ đăng ký giá, niêm yết giá, các đơn vị làm tốt cần được
khuyến khích tuyên dương, khen thưởng kịp thời cả vật chất lẫn tinh
thần.
- Khẩn trương tiến
hành phân loại doanh nghiệp theo quy mô và theo tiêu thức tốt, khá,
trung bình để có biện pháp hỗ trợ và quản lý phù hợp, tránh tình
trạng doanh nghiệp có xu hướng giải thể để hoạt động theo hình thức
cá thể.
- Thực hiện quản
lý nhà nước đối với hoạt động du lịch - dịch vụ phải đảm bảo tính
công bằng, minh bạch, chặt chẽ và đồng bộ.
2. Xác lập mối
quan hệ giữa các cơ quan quản lý Nhà Nước với vai trò của Hiệp Hội
Du Lịch:
- Đó là sự kết
hợp giữa sức mạnh của Nhà Nước với sức mạnh của đại diện hợp
pháp của doanh nghiệp nhằm đưa hoạt động du lịch phát triển theo đúng
định hướng của Tỉnh. Do vậy hoạt động của các Hiệp Hội không thể
thoát ly khỏi việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và
việc thực hiện nghiêm túc các quy định của hệ thống pháp luật và
các quy định của Tỉnh.
- Hiệp Hội du lịch
thể hiện rõ vai trò cầu nối giữa cơ quan quản lý Nhà Nước với các
doanh nghiệp, đồng thời cùng với cơ quan quản lý Nhà Nước trong việc
tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Tỉnh về phát triển kinh
tế du lịch, đào tạo nguồn nhân lực, phổ biến kinh nghiệm quản lý
tiên tiến - đẩy lùi các hình thức cạnh tranh không lành mạnh, thiếu
văn hoá.
3. Phân cấp uỷ
quyền thu:
- Thực tiễn hiện
nay, trừ thành phần kinh tế Nhà Nước và thành phần kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài có quy mô kinh doanh lớn, được tổ chức bài bản.
Kinh tế tập thể, HTX chủ yếu làm dịch vụ phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của từng thành viên trong HTX. và thực hiện nhiệm vụ tập trung
tiền thuế để nộp vào NSNN. DNTN, kinh tế cá thể chủ yếu là tận
dụng nguồn lực tài chính nhàn rỗi để xây dựng khách sạn, nhà nghỉ
đưa vào kinh doanh - do vậy mức độ, quy mô kinh doanh nhỏ và hiệu quả
kinh doanh không cao. Trên cơ sở tiêu thức phân cấp doanh nghiệp đã được
UBND có ý kiến chỉ đạo thực hiện; Ngành thuế chủ động phân loại
những doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch có quy mô nhỏ, đặc biệt
là các doanh nghiệp tư nhân và HTX, tiếp tục phân cấp cho Huyện, Thị
xã, Thành Phố quản lý. Riêng các khách sạn không đạt chuẩn tối
thiểu và các nhà trọ không thực hiện được SSKT, hoá đơn chứng từ
thì nghiên cứu trình Tỉnh uỷ quyền cho xã phường thị trấn thu. Các
khoản thu được từ các đối tượng này UBND Tỉnh sẽ xem xét cấp lại
cho đơn vị được phân cấp nhằm tạo điều kiện kích thích quản lý, khai
thác hết nguồn thu ở cơ sở.
4. Đổi mới công
tác quản lý thu thuế:
- Do đặc thù của
sản phẩm kinh tế du lịch không tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể
nên phải có phương thức quản lý cho phù hợp kể cả khách sạn và các
loại hình dịch vụ khác. Ngành thuế phải thường xuyên phối hợp chặt
chẽ với các ngành để tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát, ngăn
chặn kịp thời các hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Trong đó vai trò
của cơ quan Công an, quản lý thị trường và chính quyền cơ sở là hết
sức quan trọng.
- Tất cả các cơ sở
kinh doanh du lịch và dịch vụ du lịch đều phải thực hiện nghiêm túc
việc sử dụng hoá đơn chứng từ, ghi chép SSKT và hạch toán kế toán
để tiến tới tự tính thuế, tự kê khai và tự nộp thuế vào NSNN.
Những cơ sở không thực hiện được cơ chế tự khai, tự nộp sẽ phân cấp
cho huyện, thị xã thành phố hoặc uỷ quyền thu cho xã, phường, thị
trấn.
- Đẩy mạnh công tác
tư vấn về thuế, giúp cho đối tượng nộp thuế hiểu biết về hạch toán
kinh tế, hạch toán kế toán, từng bước phát huy tính chủ động về
khả năng kinh doanh, khả năng tài chính trong việc quản lý và hoạch
định các chương trình đầu tư và phát triển kế hoạch thu nộp ngân
sách thông qua kết quả hoạt động SXKD của mình và tự chịu trách
nhiệm trước pháp luật Nhà Nước về kết quả đó; Đồng thời tăng cường
trách nhiệm, quyền hạn kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan quản lý
Nhà nước để đảm bảo các luật thuế được thực thi nghiêm túc.
- Ngành thuế phải
vận dụng có hiệu quả quy trình quản lý của ngành với quy định của
địa phương để hoàn chỉnh cơ chế quản lý thuế, hạn chế đến mức thấp
nhất hộ kinh doanh khoán thuế.
III.
Biện pháp tổ chức thực hiện:
1. Nhóm biện
pháp về thực hiện cơ chế quản lý, chính sách:
Xuất phát từ quan
điểm mục tiêu và nội dung đổi mới, việc phát triển kinh tế du lịch -
dịch vụ của Lâm Đồng là đòi hỏi cấp thiết, phù hợp với thực tiễn,
cơ cấu định hướng kinh tế của Tỉnh. Do vậy các cấp, các ngành với
chức năng quản lý cần có chương trình nâng cao chất lượng dịch vụ
hiện có, phát triển mạnh các sản phẩm du lịch mới theo hướng đa
dạng, nhất là phát triển loại hình du lịch sinh thái nghỉ dưỡng,
hội nghị, hội thảo. Từng bước nâng dần tỷ trong kinh tế du lịch trong
GDP cũng như số thu về kinh tế du lịch trong tổng thu Ngân sách.
Các cấp các ngành
nghiêm túc thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo hướng một
cửa, cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng, ổn định, khuyến khích
phát triển SXKD của các thành phần kinh tế, trong đó chú ý thí điểm
mô hình công ty mẹ và công ty con đối với DNNN làm nòng cốt trung tâm
cho định hướng phát triển kinh tế du lịch của Tỉnh.
Tập trung đầu tư cơ
sở hạ tầng ở các khu du lịch đã được quy hoạch gồm đường giao thông,
điện, thông tin liên lạc khác, tạo tiền đề cho các nhà kinh doanh mạnh
dạn bỏ vốn đầu tư. Du lịch nghỉ dưỡng gắn liền với hoạt động chăm sóc
và phục hồi sức khoẻ thì mới phát huy hết lợi thế về du lịch nghỉ
dưỡng Đà Lạt. Tổ chức các tour du lịch, tuyến tham quan dã ngoại,
nghiên cứu văn hoá dân tộc, thể thao leo núi, dù lượn... làm đa dạng
hoá các loại hình du lịch ở địa phương.
Lựa chọn và tổ
chức các lễ hội truyền thống, đặc biệt là lễ hội của đồng bào dân
tộc thiểu số nhằm thu hút khách trong và ngoài nước, mặt khác việc
tạo điều kiện cho sự hấp dẫn của du lịch làm tăng ngày khách lưu
trú là hết sức có ý nghĩa trong việc thúc đẩy kinh tế du lịch tăng
trưởng.
Hệ thống thể chế
quản lý kinh tế phải được cải cách đồng bộ tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phát triển SXKD, thông qua đó kiểm soát hoạt động của
doanh nghiệp trong việc thực hiện Luật thuế, Luật kế toán, Pháp lệnh
giá, chế độ in phát hành và quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ.
Xây dựng quy chế
phối hợp giữa các ngành để triển khai thực hiện tốt chỉ thị
15/2005/CT-TTg ngày 15/04/2005 của Thủ tướng Chính phủ về các biện
pháp xử lý nợ đọng và chống thất thu ngân sách nhà nước.
2. Nhóm biện
pháp về quản lý các hiệp hội:
Hiệp hội du lịch
phải có nghĩa vụ đóng góp cho sự nghiệp phát triển du lịch của Lâm
Đồng bằng nhiều hình thức như định hướng phát triển, quảng bá du
lịch, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về
hoạt động du lịch. Vận động hình thành các hình thức kinh doanh du
lịch, dịch vụ đa dạng, hiệu quả để cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ
quyền lợi của người kinh doanh và du khách. Củng cố và phát huy vai
trò của Hiệp hội du lịch và các Chi hội thành viên - tổ chức xã
hội xã hội nghề nghiệp của những người làm nghề kinh doanh dịch vụ
du lịch. Làm cho tổ chức này xứng đáng là diễn đàn của những người
cùng làm trong nghề, cùng tạo điều kiện, trao đổi, học tập và giám
sát lẫn nhau nhằm hạn chế tiêu cực và cạnh tranh không lành mạnh,
đồng thời tạo điều kiện cho các cơ sở kinh doanh hợp tác hỗ trợ để
cùng phát triển.
Trên cơ sở quy luật
cung cầu, thông qua hiệp hội các doanh nghiệp thống nhất một phương
thức cạnh tranh. Phối hợp cùng các sở, ngành, chính quyền địa phương
triển khai thực hiện quản lý giá khách sạn có hiệu quả, không những
đóng góp tích cực nguồn thu cho NSNN mà còn góp phần làm tăng thu
nhập của cộng đồng.
3. Nhóm biện
pháp của các cơ quan quản lý Nhà nước:
- Sở Kế hoạch và
Đầu tư: chủ trì cùng sở ngành xây dựng cơ chế thu hút vốn đầu tư,
các chế độ ưu đãi đầu tư mới. Triển khai công tác thẩm định các quy
hoạch của các dự án thuộc chương trình phát triển du lịch của tỉnh
từ nay đến năm 2010. Phối hợp với UBND TP Đà Lạt, Cục Thuế xem xét
lại việc doanh nghiệp xin giải thể xuống kinh doanh hộ cá thể để nộp
thuế khoán có ảnh hưởng gì đến nguồn lực đầu tư hay không,
- Sở Tài nguyên và
môi trường chủ động soát xét quy hoạch sử dụng đất, thông báo công
khai khu quy hoạch du lịch ổn định lâu dài, tạo sự an tâm cho các nhà
đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư được thuê đất,
giao đất theo quy định.
- Sở Nông nghiệp và
phát triển nông thôn xây dựng quy chế giao đất giao rừng, gắn với phát
triển du lịch dã ngoại, sinh thái, soát xét lại 32 khu điểm, khu du
lịch sinh thái hiện có để thúc đẩy việc đầu tư theo dự án được
duyệt. Quy định thời hạn giao đất, giao rừng, trách nhiệm và quyền
lợi người được giao đất rừng. Song song đó những đất rừng đã được
giao để phát triển kinh tế du lịch, nhưng quá thời hạn mà chưa triển
khai thực hiện dự án, cần phải kiên quyết thu hồi, không để tình
trạng chiếm giữ đất rừng sử dụng sai mục đích.
- Sở Du lịch và thương
mại có biện pháp phát triển toàn diện kinh tế du lịch cùng với Sở
Xây dựng, sở Tài nguyên Môi trường quy hoạch phát triển các khu du
lịch mới đa dạng phong phú, hấp dẫn. Phối hợp cùng với Sở văn hoá
thông tin lựa chọn và tổ chức thường kỳ các lễ hội dân tộc truyền
thống mang đậm bản sắc Tây Nguyên. Tổ chức quảng bá các sản phẩm du
lịch của Đà Lạt - Lâm Đồng trên mọi phương tiện thông tin, trực tiếp,
tiếp xúc, học hỏi kinh nghiệm làm du lịch của các tỉnh bạn, của
các nước trong khu vực và phổ biến kinh nghiệm đó đến từng tổ chức
cá nhân làm kinh tế du lịch. Phối hợp với UBND Thành phố Đà Lạt, Sở
xây dựng, Cục Thuế tiến hành phân loại khách sạn, nhà hàng theo quy
mô và địa điểm để quản lý thuế được tốt hơn, chậm nhất phải hoàn
chỉnh đến cuối năm 2005. Có đề án trình Tỉnh cần đầu tư phát triển
những lĩnh vực ngành nghề nào bổ trợ cho hoạt động du lịch và hiệu
quả mang lại từ việc đầu tư đó. Phối hợp với các ngành chức năng
xây dựng quy chế thưởng cho các cơ sở kinh doanh du lịch có nhiều
thành tích trong công tác phát triển du lịch Tỉnh nhà. Tham gia cùng
các ngành chức năng đề xuất phương án xác định giá tính thuế tối
thiểu thay cho phương án tính thuế hiện tại đang áp dụng tại địa bàn
Đà Lạt
- Các Ban quản lý
dự án khu du lịch hồ Tuyền Lâm, DanKia Suối Vàng cần đẩy nhanh tiến
độ xây dựng công trình, cố gắng đưa các dự án vào hoạt động đúng
thời gian kế hoạch có hiệu quả.
- Sở Văn Hoá Thông
Tin - Đài phát thanh truyền hình thường xuyên mở các cuộc vận động,
tuyên truyền trong toàn thành phố về xã hội hoá du lịch. Những cơ sở
kinh doanh, cá nhân làm du lịch cần phải đổi mới phong cách, nâng cao
chất lượng dịch vụ, bảo vệ uy tín ngành, của cơ sở và cá nhân đối
với du khách. Những tổ chức, cá nhân làm các dịch vụ khác phục vụ
đời sống chung, du khách nói riêng như thương mại, vận chuyển, dịch vụ
cũng phải làm ăn chính đáng đúng pháp luật, giữ gìn và phát huy
phong cách người Đà Lạt. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng đời sống
văn hoá, xây dựng gia đình, khu phố, thôn, cơ quan văn hoá. Có nhiều
biện pháp sinh động để giữ gìn và phát huy phong cách người Đà Lạt,
làm cho thành phố ngày càng xanh, sạch, đẹp. Mọi công dân phải ứng
xử với tư cách là người chủ nhà thành phố du lịch. Tăng cường tuyên
truyền quảng bá về Đà Lạt và du lịch Đà Lạt để nhiều địa phương,
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước biết về du lịch Đà Lạt. Trên cơ
sở kế hoạch chỉ đạo chung của chính quyền, mỗi cơ sở kinh doanh tìm
kiếm những hình thức, nội dung giới thiệu quảng bá về du lịch.
- Công an Tỉnh chủ
động xây dựng quy chế quản lý an ninh trật tự về khai báo đăng ký
khách đi và đến theo hướng hiện đại, chặt chẽ tránh làm phiền hà
cho du khách nhất là khách quốc tế, tham gia cùng các địa phương giải
quyết dứt điểm các tệ nạn xã hội.
- UBND các huyện,
thị xã thành phố phối hợp cùng các sở ngành xây dựng phát triển
các làng nghề phục vụ du lịch ở các địa phương như dự án làng nghề
dệt thổ cẩm ( Lạc Dương, Đức Trọng ); dự án làng nghề gốm B'Ro ( Đơn
Dương ); dự án làng nghề đan lát mây tre lá (ĐạHuoai ); dự án làng
nghề tranh thêu tay (Đà Lạt ); khu giới thiệu hàng thủ công mỹ nghệ
tại Đà Lạt. Chủ trì cùng các ngành liên quan thực hiện giải phóng
mặt bằng trong đó tập trung giải toả các công trình khu du lịch Tuyền
lâm, ĐanKia - Suối Vàng...
4. Nhóm biện
pháp quản lý cơ quan thuế:
Cục Thuế Tỉnh sớm
xây dựng quy chế phối hợp giữa các ngành để triển khai thực hiện
tốt chỉ thị 15/2005/CT-TTg ngày 15/04/2005 của Thủ tướng Chính Phủ về
các biện pháp xử lý nợ đọng và chống thất thu ngân sách nhà nước.
- Tiếp tục xem xét
phân cấp quản lý thu đối với doanh nghiệp khách sạn, nhà nghỉ cho
phù hợp thực tế với địa phương. Tạo điều kiện thuận lợi cho người
nộp thuế thực hiện việc tuân thủ pháp luật về thuế, động thời nâng
cao hiệu quả quản lý thuế. Từng bước triển khai thí điểm cơ chế
quản lý thu thuế theo phương thức tự khai, tự nộp theo lộ trình cải
cách thuế của Nhà nước, nhằm phát huy được tính tự chủ và tự chịu
trách nhiệm trước Pháp luật của các doanh nghiệp về kết quả SXKD và
thực hiện chế độ thu nộp thuế đối với NSNN.
- Về công tác hành
thu phải tổ chức triển khai kịp thời các văn bản điều hành thu Ngân
sách của Nhà nước, phải thường xuyên bám sát hoạt động kinh doanh
của tổ chức cá nhân có tham gia kinh doanh dịch vụ du lịch. Chủ động
bám sát thực tế cơ sở, nắm chắc thông tin đối tượng cần quản lý.
Rà soát hoạt động của các nhà khách, nhà nghỉ của các đơn vị lực
lượng vũ trang, đơn vị hành chính sự nghiệp, bảo đảm đưa tất cả các
đơn vị này vào diện quản lý thu thuế, mọi thành phần kinh tế có
kinh doanh phải bình đẳng trong việc thực hiện pháp luật thuế. Phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan trong hệ thống tài chính, nhất là với
kho bạc Nhà nước để huy động tiền thuế kịp thời vào NSNN.
- Chủ trì để phối
hợp cùng Sở Du lịch và Thương mại, UBND thành phố Đà Lạt hướng dẫn
xác định giá tính thuế tối thiểu đối với hoạt động lưu trú trên
địa bàn Tỉnh theo nội dung văn bản số 5524/UB ngày 31/12/2004 của UBND
Tỉnh.
- Cần nghiên cứu
kỹ, toàn diện mô hình hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt là
việc khách trả tiền từ nước ngoài của các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài, hoặc trả tiền từ ngoài Tỉnh đối với các doanh nghiệp ngoài
Tỉnh nhưng phục vụ tại Lâm Đồng để quản lý hết doanh thu, thu nhập
và thuế phải nộp thực tế có phát sinh tại địa phương.
- Công tác tập huấn
và tuyên truyền: Thông qua công tác này làm cho cơ sở SXKD và người
nộp thuế vừa phát huy được tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm đối
với kết quả SXKD của mình, vừa am hiểu về các chính sách thuế để
họ tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế qua kết quả SXKD của mình
vào NSNN. Do đó đòi hỏi cán bộ công tác ở lĩnh vực này từ tỉnh
xuống cơ sở phải giỏi về nghiệp vụ, giỏi về công tác quản lý, am
hiểu về tình hình kinh tế xã hội, cập nhật thông tin kịp thời phục
vụ tốt công tác tư vấn cho ĐTNT.
- Đẩy mạnh công tác
thanh kiểm tra trong và ngoài ngành. Thanh kiểm tra là một trong những
nhiệm vụ quan trọng nhất của công tác quản lý thuế nhằm phát hiện
kịp thời nhưng vi phạm để giáo dục và ngăn chặn những hành vi không
tuân thủ Pháp luật thuế và xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp
cố ý gian lận tiền thuế dưới mọi hình thức. Đẩy mạnh công tác thanh
kiểm tra trong nội bộ ngành về việc thực hiện các quy trình quản
lý, chấp hành kỷ cương kỷ luật ngành thuế. Đổi mới công tác quản
lý cán bộ theo hướng quy định rõ trách nhiệm của từng cán bộ đối với
nhiệm vụ được giao. Đánh giá cán bộ chủ yếu căn cứ vào kết quả
công tác, vào việc hoàn thành khối lượng và chất lượng công việc
được giao, coi trọng phẩm chất đạo đức chính trị, xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm.
- Triển khai ứng
dụng có hiệu quả các chương trình quản lý trên máy tính để phục vụ
tốt cho công tác chỉ đạo điều hành và quản lý thu thuế. Từng bước
hoàn thiện tiến tới nối mạng với bộ phận tiếp nhận đăng ký tạm trú
khách lưu trú của cơ quan công an, từ đó kịp thời kiểm tra phát hiện
những cơ sở kinh doanh cố tình trốn khách, dấu khách.
- Phối hợp với các
cơ quan chức năng để tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra. Đồng thời
đề ra các biện pháp quản lý thuế hữu hiệu trên từng lĩnh vực du
lịch dịch vụ, nhằm đạt được kết quả thu như lộ trình đã đề ra./.
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG