Quyết định 106/2006/QĐ-UBND xin phê duyệt chương trình phát triển du lịch Nghệ An giai đoạn 2006-2010 do Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành

Số hiệu 106/2006/QĐ-UBND
Ngày ban hành 24/10/2006
Ngày có hiệu lực 03/11/2006
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Tỉnh Nghệ An
Người ký Nguyễn Văn Hành
Lĩnh vực Đầu tư,Bộ máy hành chính,Văn hóa - Xã hội

UỶ BAN NHÂN DÂN
TỈNH NGHỆ AN

*****

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******

Số: 106/2006/QĐ-UBND

Hà Nội, ngày 24 tháng 10 năm 2006

 

QUYẾT ĐỊNH

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị quyết số 01/NQ-TU ngày 26/12/2006 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về chương trình hành động thực hiện triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI;
Xét đề nghị của ông Giám đốc Sở Du lịch tại Tờ trình số 483/TTr.SDL-KH ngày 16/10/2006 về việc xin phê duyệt chương trình phát triển du lịch Nghệ An giai đoạn 2006-2010,

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Chương trình phát triển du lịch Nghệ An giai đoạn 2006 - 2010.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày ký.

Điều 3. Các ông: Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc sở Du lịch, các thành viên Ban chỉ đạo phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2006 - 2010, giám đốc các Sở, thủ trưởng các ban, ngành, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố, thị xã liên quan căn cứ Quyết định thi hành./.

 

 

TM. UỶ BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Nguyễn Văn Hành

 

CHƯƠNG TRÌNH

PHÁT TRIỂN DU LỊCH NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2006-2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 106/2006/QĐ-UBND ngày 24 tháng 10 năm 2006 của UBND tỉnh Nghệ An)

Phần 1:

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN DU LỊCH NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2001-2005

I. KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN DU LỊCH GIAI ĐOẠN 2001-2005

Trong 5 năm qua du lịch Nghệ An đã có những bước phát triển đáng kể trên nhiều mặt cụ thể như sau:

1. Công tác tuyên truyền quảng bá được duy trì thường xuyên, có chiều sâu trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua các hoạt động đa dạng khác góp phần nâng cao được hình ảnh Nghệ An nói chung và du lịch Nghệ An nói riêng trong cả nước và khu vực. Phát triển du lịch trong những năm qua, đặc biệt thành công của Năm Du lịch Quốc gia tổ chức tại Nghệ An đã tạo ra một bước chuyển biến, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò và hiệu quả nhiều mặt của du lịch, đồng thời để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng du khách đến với Nghệ An, tạo thế và lực cho du lịch Nghệ An phát triển vững chắc trong giai đoạn mới, từng bước đưa Nghệ An trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong nước và quốc tế;

2. Thông qua hoạt động liên doanh, liên kết với các tổ chức du lịch trong nước và một số nước trong khu vực và các hoạt động khác nên đã thu hút một lượng khách lớn vào Nghệ An. Năm 2000 du lịch Nghệ An chỉ đón được 515.887 lượt khách lưu trú trong đó có 15.227 lượt khách quốc tế. Doanh thu du lịch đạt 90,9 tỷ đồng. Đến năm 2005 du lịch Nghệ An đã đón được 1.400.820 lượt khách lưu trú tăng bình quân hàng năm 22,1%, trong đó có 40.847 lượt khách quốc tế. Doanh thu du lịch đạt 385.312 tỷ đồng tăng bình quân hàng năm 23,3% vượt chỉ tiêu đặt ra trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 là 40% (Tăng 108 tỷ đồng).

Nộp ngân sách năm 2000 đạt 6.780 triệu đồng, năm 2005 đạt 30.850 triệu đồng tăng bình quân 35%/năm.

3. Từng bước đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, tăng cường sức hấp dẫn thu hút khách nội địa và quốc tế;

4. Cơ sở vật chất và hạ tầng du lịch được tăng cường, tạo ra diện mạo mới cho ngành du lịch Nghệ An bằng nhiều nguồn vốn từ các chương trình dự án: giao thông, xoá đói giảm nghèo, bảo tồn tôn tạo di tích lịch sử văn hoá, vốn từ Chương trình quốc gia về phát triển du lịch. Đặc biệt là sau khi có Quyết định 700/QĐ.UBND tỉnh ngày 01/3/2004 của UBND tỉnh về việc giao nhiệm vụ thực hiện các công trình xây dựng phục vụ Năm Du lịch Nghệ An 2005, nhiều khu, điểm du lịch đã có hệ thống hạ tầng tốt để phục vụ khách du lịch: đường vào các điểm du lịch trong Vườn quốc gia Pù Mát; đường vào Hang Bua, Thẩm ồm, đường nối khu du lịch Bến Thuỷ – Núi Quyết với khu vui chơi giải trí Hồ Cửa Nam đã và đang được xây dựng, nâng cấp. Cơ sở hạ tầng nhiều khu du lịch: Cửa Lò, Diễn Châu, Quỳnh Lưu ngày càng tốt hơn, hệ thống giao thông đến các điểm di tích lịch sử tại Nam Đàn cơ bản hoàn thành... Cơ sở vật chất phục vụ du lịch của ngành tăng đáng kể. Năm 2000 toàn tỉnh mới có 62 cơ sở đạt tiêu chuẩn kinh doanh khách sạn với 2.470 buồng, đến 2005 trên địa bàn tỉnh có 314 cơ sở khách sạn, nhà nghỉ nhà khách với 7.138 buồng, trong đó có 04 khách sạn 3 sao, 14 khách sạn 2 sao, đảm bảo đón trên 2 triệu lượt khách lưu trú trong một năm. Ước tính nguồn vốn đầu tư trực tiếp vào hạ tầng du lịch trong 5 năm qua đạt gần 1.000 tỷ, trong đó vốn từ chương trình quốc gia về phát triển du lịch 76 tỷ;

5. Công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực được triển khai khá tích cực, nguồn kinh phí đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực được quan tâm hơn, trong đó ngân sách tỉnh và Trung ương hỗ trợ 20% còn lại doanh nghiệp và người học tự đóng góp. Kết quả hơn 1.200 lượt cán bộ quản lý kinh doanh, nhân viên phục vụ trong ngành du lịch được đào tạo về nghiệp vụ du lịch, ngoại ngữ, từng bước đáp ứng được yêu cầu của du khách, riêng năm 2004, 2005 đã tổ chức tập huấn kiến thức văn hoá du lịch, nghiệp vụ hướng dẫn cho trên 1.000 cán bộ quản lý, thuyết minh, chủ hộ kinh doanh du lịch tại các vùng du lịch trọng điểm như Nam Đàn, Cửa Lò, Vinh; đội ngũ cán bộ công nhân ngày càng đáp ứng yêu cầu phát triển của du lịch.

6. Công tác quản lý nhà nước về các hoạt động du lịch trên địa bàn ngày càng khá hơn. Ngành đã tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng một số quy hoạch chi tiết phát triển du lịch, kế hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm sát với tình hình thực tế của địa phương góp phần thúc đẩy nhanh phát triển du lịch; tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành các chỉ thị về tăng cường quản lý nhà nước về du lịch. Chỉ đạo triển khai thực hiện Pháp lệnh Du lịch, các Nghị dịnh của Chính phủ trong toàn ngành. Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, thẩm định xếp hạng cơ sở lưu trú. Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra các hoạt động du lịch trên địa bàn. Nhờ vậy các đơn vị kinh doanh du lịch phát triển nhanh và thực hiện tốt việc tuân thủ pháp luật.

Đội ngũ quản lý nhà nước về du lịch ngày càng được kiện toàn và có kinh nghiệm góp phần thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững.

II. NHỮNG TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN

1. Những tồn tại:

Bên cạnh những kết quả đạt được trong 5 năm qua, du lịch Nghệ An vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần được quan tâm khắc phục đó là:

- Tốc độ tăng trưởng về doanh thu và lượng khách toàn ngành tăng nhanh, song tỷ trọng khách quốc tế còn rất nhỏ, chiếm tỷ trọng 2.5- 3% trên tổng số lượt khách (điều này nói lên Nghệ An chưa có sản phẩm du lịch thực sự hấp dẫn khách quốc tế và công tác tuyên truyền quảng bá ra thị trường nước ngoài còn yếu);

[...]