Nghị quyết về kế hoạch 5 năm 1996-2000 do Quốc Hội ban hành

Số hiệu Khôngsố
Ngày ban hành 12/11/1996
Ngày có hiệu lực 12/11/1996
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Quốc hội
Người ký Nông Đức Mạnh
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

QUỐC HỘI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

 

Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 1996

 

NGHỊ QUYẾT

 VỀ KẾ HOẠCH 5 NĂM 1996-2000

Căn cứ vào Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ và các cơ quan hữu quan về kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000;

QUYẾT NGHỊ

Tán thành Báo cáo của Chính phủ về đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 và nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu, các giải pháp lớn của kế hoạch 5 năm 1996-2000.

Phần thứ nhất:

NHIỆM VỤ KẾ HOẠCH 5 NĂM 1996 - 2000

I- NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT

Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau.

II- NHIỆM VỤ VÀ MỤC TIÊU CHỦ YẾU

1- Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm 9-10%, trong đó:

- Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,5 - 5%. Đến năm 2000, sản lượng lương thực khoảng 30-32 triệu tấn.

- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 14-15%.

- Giá trị dịch vụ tăng bình quân hàng năm 12-13%.

- Đến năm 2000, tỉ trọng công nghiệp và xây dựng đạt khoảng 34-35% trong GDP; nông, lâm, ngư nghiệp đạt khoảng 19-20%; dịch vụ đạt khoảng 45-46%; tỉ lệ đầu tư phát triển trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân khoảng 30% GDP; GDP bình quân đầu người gấp đôi năm 1990.

2- Tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính của đất nước, lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia:

- Huy động 20-21% GDP vào ngân sách Nhà nước.

- Bội chi ngân sách không quá 3,5% GDP.

- Lạm phát dưới 10%.

3- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại; giảm nhập siêu:

- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm khoảng 27-28%. - Kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân hàng năm khoảng 22-24%.

4- Giải quyết tốt một số vấn đề xã hội:

- Thanh toán nạn mù chữ cho những người lao động trong độ tuổi 15 - 35 và thu hẹp diện mù chữ ở các độ tuổi khác; hoàn thành cơ bản phổ cập tiểu học trong cả nước; phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố lớn và những nơi có điều kiện; phát triển quy mô giáo dục ở các ngành học nhất là giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề. Chuyển mạnh về chất lượng giáo dục, đào tạo. Cải tiến và nâng cao chất lượng thi cử.

- Phát triển và nâng cao năng lực, hiệu quả nghiên cứu, triển khai khoa học và công nghệ.

- Phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, thông tin, y tế, thể dục thể thao, mở rộng tới các vùng sâu, vùng xa.

- Giảm nhịp độ phát triển dân số vào năm 2000 xuống dưới 1,8%. - Giải quyết việc làm cho 6,5-7 triệu người. Cải cách tiền lương, giải quyết những bất hợp lý trong chính sách tiền lương và các chính sách xã hội khác.

- Hoàn thành căn bản định canh, định cư và ổn định đời sống của đồng bào các dân tộc ít người.

- Bảo vệ và cải thiện môi sinh; ngăn chặn và giảm ô nhiễm môi trường ở thành phố, khu công nghiệp.

- Ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác, nhất là tệ buôn bán, nghiện hút ma tuý, tệ nạn mại dâm; loại trừ văn hoá độc hại.

5- Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vững mạnh.

6- Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác quốc tế và chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá.

7- Tích cực chuẩn bị và tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000, tập trung vào 4 nội dung chủ yếu:

- Phát triển nguồn nhân lực.

- Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia.

- Phát triển kết cấu hạ tầng và xây dựng một số công trình công nghiệp then chốt.

- Hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

III- CÁC CHƯƠNG TRÌNH VÀ LĨNH VỰC PHÁT TRIỂN

Để hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu phát triển nói trên, cần thực hiện các chương trình và lĩnh vực phát triển sau đây:

1- Chương trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn;

2- Chương trình phát triển công nghiệp;

3- Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng;

4- Chương trình phát triển khoa học và công nghệ, bảo vệ môi

trường sinh thái;

5- Chương trình phát triển kinh tế dịch vụ;

6- Chương trình phát triển kinh tế đối ngoại;

7- Chương trình phát triển giáo dục và đào tạo;

8- Chương trình giải quyết các vấn đề văn hoá - xã hội;

9- Chương trình phát triển các vùng lãnh thổ;

10- Chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng

đồng bào dân tộc;

11- Chương trình về xoá đói, giảm nghèo.

Chính phủ báo cáo để Quốc hội xem xét, quyết định việc xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia. Đối với các công trình quan trọng khác, Quốc hội giao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định và báo cáo Quốc hội.

Phần thứ hai:

CÁC GIẢI PHÁP LỚN CỦA KẾ HOẠCH 5 NĂM 1996-2000

I- VỀ MỘT SỐ CÂN ĐỐI LỚN

1- Cân đối tài chính quốc gia và ngân sách Nhà nước:

Đẩy mạnh phát triển và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế để tăng nguồn lực tài chính quốc gia, đồng thời có chính sách huy động và sử dụng hợp lý nguồn lực đó nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội.

Nâng mức tiêu dùng bình quân đầu người tăng hàng năm khoảng 6%, gần gấp đôi nhịp độ tăng của 5 năm trước để cải thiện một bước đời sống dân cư nhất là vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc ít người; đồng thời khuyến khích tiết kiệm để tăng dần tỉ lệ tích luỹ cho đầu tư phát triển. Phấn đấu đến năm 2000 để có cơ cấu giữa tích luỹ và tiêu dùng theo tỷ lệ: tích luỹ 30% và tiêu dùng 70%.

Đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút đầu tư, viện trợ... để tăng nhanh nguồn thu ngoại tệ và sử dụng hợp lý nguồn ngoại tệ.

Khuyến khích đẩy mạnh sản xuất, hạ chi phí, nâng cao chất lượng và hiệu quả để bồi dưỡng nguồn thu và tăng thu. Tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế; thực hiện thu đúng, thu đủ thuế, phí và các nguồn thu khác theo luật định. Đảm bảo thực hiện chi ngân sách có hiệu quả. Triệt để tiết kiệm chi. Cơ cấu chi phải tập trung cho những nhu cầu chi cấp bách nhất; nâng tỉ lệ chi cho đầu tư phát triển. Tốc độ tăng chi tiêu dùng thường xuyên phải thấp hơn tốc độ tăng chi ngân sách. Thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán, thống kê. Kiểm soát chặt chẽ và xử lý nghiêm khắc các vi phạm chế độ thu, chi ngân sách. Giảm bội chi ngân sách.

2- Cân đối vốn đầu tư và bảo đảm quan hệ lớn về phân bổ nguồn vốn đầu tư:

Huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, khai thác mọi khả năng để nâng cao tỉ lệ nguồn vốn trong nước. Tăng nhanh mức huy động vốn thông qua các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển và mở rộng thị trường vốn bằng nhiều hình thức như: tiền gửi tiết kiệm trung, dài hạn; phát hành trái phiếu, cổ phiếu, kể cả việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế; mở rộng các quỹ đầu tư và các hình thức huy động nguồn vốn nước ngoài. Từng bước hình thành thị trường chứng khoán. Chú trọng khai thác các nguồn vốn từ đất đai, từ nguồn tài sản của Nhà nước, tài sản, công sức của dân, của các thành phần kinh tế... Sớm ban hành cơ chế cụ thể về huy động vốn đầu tư và sức lao động của toàn xã hội để phát triển đất nước.

Trong phân bổ nguồn vốn đầu tư, cần chú ý một số quan hệ lớn:

- Giữa các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác; giữa các ngành trọng điểm với các ngành khác;

- Giữa các ngành công nghiệp;

- Giữa phát triển kinh tế với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và các vấn đề văn hoá, xã hội.

3- Quan hệ cung - cầu một số vật tư hàng hoá chủ yếu:

Có chính sách và biện pháp khuyến khích sản xuất đối với một số vật tư hàng hoá chủ yếu như: lương thực, sắt thép, xi măng, phân bón, hoá chất, hoá dầu, may mặc, thuốc chữa bệnh, giấy...; tăng nhanh khối lượng và chất lượng hàng hoá; nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước; kiểm soát việc nhập khẩu đối với các loại hàng hoá trong nước đã sản xuất được. Đẩy mạnh lưu thông hàng hoá, khắc phục dần tình trạng kinh doanh qua nhiều khâu trung gian. Củng cố và đổi mới thương nghiệp quốc doanh liên kết với các thành phần kinh tế khác để làm tốt việc cung ứng vật tư và dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp, phục vụ tốt yêu cầu tiêu thụ và xuất khẩu nông sản.

II- VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ

1- Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.

Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả khu vực kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo; tổ chức lại và sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ; triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.

Mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng mà nòng cốt là các hợp tác xã. Thực hiện tốt Luật hợp tác xã. Nhà nước khuyến khích, giúp đỡ kinh tế hợp tác phát triển có hiệu quả.

Phát triển đa dạng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.

Giúp đỡ kinh tế cá thể và tiểu chủ phát triển ở những ngành nghề và quy mô thích hợp.

Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất trong các vùng, ngành, lĩnh vực phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển của đất nước.

2- Hoàn thiện cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước.

Xây dựng đồng bộ các loại thị trường, tạo môi trường cho sự vận động năng động và có trật tự của cơ chế thị trường.

Đổi mới công tác kế hoạch hoá theo hướng kế hoạch bao quát toàn bộ nền kinh tế quốc dân, chú trọng chiến lược phát triển kinh tế dài hạn, trung hạn, quy hoạch ngành, các địa bàn, hoạch định các chính sách và giải pháp vĩ mô.

Cải cách và xây dựng hệ thống tài chính, tiền tệ thành công cụ điều tiết vĩ mô nhạy bén và phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Hoàn thiện chính sách tài chính quốc gia, thực hiện tốt Luật ngân sách nhà nước. Ban hành Luật ngân hàng; hoàn thiện cơ chế kinh doanh của các ngân hàng thương mại; nâng cao vai trò kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng nhà nước.

3- Tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế đối ngoại, đẩy nhanh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.

Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu; xây dựng đồng bộ chính sách khuyến khích xuất khẩu, bao gồm các chính sách về vốn, công nghệ, thị trường và ưu đãi về thuế. Thực hiện có hiệu quả Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhất là việc tiếp nhận và sử dụng vốn đầu tư, công nghệ từ bên ngoài. Có chính sách nhập khẩu hợp lý đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Kiểm soát chặt chẽ việc vay nợ nước ngoài và thực hiện đúng cam kết trả nợ.

Từng bước thống nhất chính sách đối với đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước.

III- TIẾP TỤC CẢI CÁCH VÀ NÂNG CAO HIỆU LỰC HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC

1- Sắp xếp lại bộ máy Nhà nước một cách hợp lý, tinh gọn, phù hợp với cơ chế mới và sự phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm sự điều hành tập trung thống nhất, có hiệu lực từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Cụ thể hoá sự phân cấp quản lý Nhà nước và phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp, của thủ trưởng các cơ quan Nhà nước.

Đổi mới, kiện toàn và xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh; nâng cao chất lượng và hiệu quả các hoạt động điều tra, kiểm sát, xét xử, thi hành án, góp phần tích cực vào việc thực thi pháp luật trong đời sống xã hội.

Phấn đấu xây dựng Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân; giải quyết kịp thời các đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân.

2- Thực hiện cải cách cơ bản các thủ tục hành chính; loại bỏ những khâu bất hợp lý và gây phiền hà, ngăn chặn tệ cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật.

3- Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội một cách đồng bộ, toàn diện, phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Triển khai sâu rộng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Tổ chức tốt việc thi hành pháp luật, giữ nghiêm kỷ cương phép nước; thực hiện nghiêm chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong phạm vi cả nước.

4- Kiện toàn đội ngũ cán bộ, viên chức. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức cho vùng dân tộc và các vùng có nhiều khó khăn. Trên cơ sở xây dựng pháp lệnh công chức và chế độ công vụ mới, thực hiện tốt việc tuyển chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ, viên chức có năng lực, có đạo đức phẩm chất; sắp xếp, sử dụng đội ngũ cán bộ viên chức hợp lý, đúng người đúng việc. Kiên quyết xử lý, loại ra khỏi bộ máy nhà nước những người thoái hoá, biến chất.

Chú ý xây dựng và có chính sách hợp lý đối với cán bộ cơ sở xã, phường.

IV- THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, HỐNG LÃNG PHÍ, CHỐNG THAM NHŨNG, CHỐNG BUÔN LẬU BẰNG NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ HƠN

Cần tổng kết việc thi hành Nghị quyết trong mấy năm qua, kiểm điểm trách nhiệm của từng cơ quan trong việc thi hành các quy định của Nghị quyết. Trên cơ sở đó, rút kinh nghiệm, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Sớm ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật về chống tham nhũng. Phát hiện kịp thời, đầy đủ và xử lý nghiêm khắc các vụ tham nhũng, trước hết là các vụ nghiêm trọng. Nâng cao trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ, các cơ quan bảo vệ pháp luật và chính quyền các cấp trong việc tổ chức thực hiện cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Tăng cường trách nhiệm giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và vai quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh này. Đồng thời thực hiện cá pháp chống buôn lậu, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm, trước h các cơ quan Nhà nước.

V- TỔ CHỨC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT VỀ KẾ HOẠCH 5 NĂM 1996-2000

Thực hiện kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân, của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.

Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội cần tổng kết kinh nghiệm qua 10 năm đổi mới, tập trung vào tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội khoá IX; tổ chức tốt cuộc tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội khoá X; trên cơ sở đó, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội về mọi mặt, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Quốc hội ngày càng cao. Cần đẩy mạnh và cải tiến các hoạt động giám sát, thực hiện mạnh mẽ và có hiệu quả chức năng giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Quốc hội giao trách nhiệm cho Chính phủ căn cứ vào Nghị quyết này để dự kiến nhiệm vụ hàng năm từ nay đến năm 2000 trình Quốc hội xem xét, quyết định và tổ chức chỉ đạo, điều hành việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 đạt kết quả cao; giao trách nhiệm cho Toà án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao phát huy mạnh mẽ hiệu lực của công tác kiểm sát, xét xử đối với việc thực hiện các nhiệm vụ và biện pháp đã được Quốc hội thông qua.

Quốc hội yêu cầu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tăng cường giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước; đồng thời, động viên nhân dân phát huy vai trò làm chủ, nêu cao tinh thần yêu nước, tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 1996 - 2000.

Quốc hội kêu gọi toàn thể đồng bào, cán bộ và chiến sĩ trong cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài ra sức phát huy tính năng động, sáng tạo, cần kiệm trong lao động sản xuất, trong cuộc sống, đóng góp sức người, sức của xây dựng đất nước, góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Nghị quyết này được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 12 tháng 11 năm 1996.

 

 

Nông Đức Mạnh

(Đã ký)