Luật Đất đai 2024

Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 do Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ban hành

Số hiệu 58/1998/NQ-UBTVQH10
Cơ quan ban hành Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Ngày ban hành 20/08/1998
Ngày công báo Đã biết
Lĩnh vực Bất động sản,Quyền dân sự
Loại văn bản Nghị quyết
Người ký Nông Đức Mạnh
Ngày có hiệu lực Đã biết
Số công báo Đã biết
Tình trạng Đã biết

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 58/1998/NQ-UBTVQH10

Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 1998

NGHỊ QUYẾT

VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VỀ NHÀ Ở ĐƯỢC XÁC LẬP TRƯỚC NGÀY 1 THÁNG 7 NĂM 1991

ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

Để thi hành Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 8 ngày 28 tháng 10 năm 1995 về việc thi hành Bộ luật dân sự;
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 11 ngày 10 tháng 5 năm 1997,

QUYẾT NGHỊ:

Mục 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Nguyên tắc giải quyết Các giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (ngày Pháp lệnh nhà ở năm 1991 có hiệu lực) được giải quyết theo quy định của Nghị quyết này; việc giải quyết phải được thực hiện từng bước phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

1. Khuyến khích, tôn trọng sự thoả thuận của các bên tham gia giao dịch dân sự, phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong nội bộ nhân dân; tránh lãng phí của cải, vật chất phát sinh do việc đòi lại nhà gây ra;

2. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; trong quá trình giải quyết cần quan tâm thích đáng đối với bên tham gia giao dịch dân sự là người có công với cách mạng, người thuộc diện được hưởng chính sách xã hội, người nghèo đang phải thuê nhà ở, mượn nhà ở;

3. Giữ vững ổn định xã hội, có khả năng thực thi và được nhân dân đồng tình.

Điều 2. Phạm vi áp dụng

1. Nghị quyết này được áp dụng đối với các giao dịch dân sự về nhà ở đang thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức, bao gồm:

a) Thuê nhà ở;

b) Cho mượn, cho ở nhờ nhà ở;

c) Mua bán nhà ở;

d) Đổi nhà ở;

đ) Tặng cho nhà ở;

e) Thừa kế nhà ở;

g) Quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân.

2. Nghị quyết này không áp dụng đối với giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia.

Mục 2:

GIAO DỊCH DÂN SỰ VỀ NHÀ Ở GIỮA CÁ NHÂN VỚI CÁ NHÂN

Điều 3. Thuê nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực, thì bên cho thuê và bên thuê có thể thoả thuận tiếp tục việc thuê; nếu thoả thuận được thì các bên phải ký kết hợp đồng thuê nhà ở theo quy định của Bộ luật dân sự.

2. Trong trường hợp thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà các bên không thoả thuận được về việc tiếp tục thuê, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở theo quy định sau đây:

a) Trong trường hợp bên thuê đã có chỗ ở khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng;

b) Trong trường hợp bên thuê có điều kiện tạo lập chỗ ở khác hoặc bên cho thuê đã tự nguyện tạo điều kiện cho bên thuê có chỗ ở khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là sáu tháng;

c) Trong trường hợp bên cho thuê không có chỗ ở và không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác, thì tuỳ từng trường hợp mà bên cho thuê được lấy lại một phần hoặc toàn bộ nhà ở, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng;

d) Trong trường hợp bên cho thuê tuy có nhà ở nhưng có khó khăn về đời sống hoặc có diện tích ở dưới mức bình quân 6m2/người và bên thuê không có chỗ ở khác hoặc không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác, thì tuỳ từng trường hợp mà bên cho thuê được lấy lại một phần nhà cho thuê, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là sáu tháng;

đ) Trong trường hợp bên cho thuê chưa được lấy lại nhà ở theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều này, thì được lấy lại nhà ở kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng.

3. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng vẫn còn, nhưng kết thúc trước ngày 1 tháng 7 năm 2005, nếu các bên không có thoả thuận khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng; nếu bên thuê nhà được tiếp tục ở nhà thuê sau khi đã hết thời hạn hợp đồng cho đến trước ngày 1 tháng 7 năm 2005 mà phát sinh các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều này, thì thực hiện theo quy định tại các điểm đó.

4. Trong trường hợp thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng vẫn còn sau ngày 1 tháng 7 năm 2005, nếu các bên không có thoả thuận khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở kể từ ngày hết thời hạn thuê.

5. Trong trường hợp thời hạn thuê nhà ở không được xác định trong hợp đồng và các bên không có thoả thuận khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng; nếu đến trước ngày 1 tháng 7 năm 2005 mà phát sinh các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều này, thì thực hiện theo quy định tại các điểm đó.

6. Trong trường hợp bên cho thuê lấy lại nhà ở để cho thuê hoặc bán nhà đang cho thuê, thì bên thuê được ưu tiên ký hợp đồng thuê tiếp hoặc được quyền ưu tiên mua nhà đang thuê theo quy định của Bộ luật dân sự.

7. Trong thời gian bên thuê được tiếp tục ở nhà thuê, thì các bên phải thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự. Giá thuê nhà ở trong trường hợp này do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định tương ứng với từng thời kỳ.

8. Hợp đồng thuê nhà ở mà toàn bộ hoặc một phần nội dung vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật dân sự thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật dân sự.

Điều 4. Cho mượn, cho ở nhờ nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực, thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ được lấy lại nhà ở, nếu các bên không có thoả thuận khác, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ biết trước ít nhất là ba tháng.

2. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở theo hợp đồng vẫn còn, thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ được lấy lại nhà ở kể từ khi hết hạn hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ biết trước ít nhất là ba tháng.

3. Trong trường hợp thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở không được xác định trong hợp đồng, thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ được lấy lại nhà ở, nếu các bên không có thoả thuận khác, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ biết trước ít nhất là sáu tháng. Trong trường hợp bên mượn, bên ở nhờ không có chỗ ở khác hoặc không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác, thì tuỳ từng trường hợp mà được tiếp tục sử dụng một phần hoặc toàn bộ nhà ở đang mượn, đang ở nhờ cho đến ngày 1 tháng 7 năm 2005 và các bên phải ký kết hợp đồng thuê nhà ở theo quy định của Bộ luật dân sự; giá thuê nhà ở được thực hiện theo quy định tại khoản 7 Điều 3 của Nghị quyết này; nếu bên mượn, bên ở nhờ không chịu ký kết hợp đồng thì phải trả lại nhà; nếu bên cho mượn, bên cho ở nhờ không chịu ký kết hợp đồng thì bên mượn, bên ở nhờ được tiếp tục ở nhà đang mượn, đang ở nhờ cho đến ngày 1 tháng 7 năm 2005.

Điều 5. Mua bán nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì bên mua phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

2. Trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì giải quyết như sau:

a) Nếu hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng, thì hợp đồng được công nhận, các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu;

b) Nếu hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng, thì giải quyết như sau:

- Nếu các bên chưa thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, thì hợp đồng bị huỷ bỏ;

- Nếu bên mua đã trả đủ hoặc một phần tiền mua nhà mà bên bán chưa giao nhà hoặc bên bán đã giao toàn bộ hoặc một phần nhà mà bên mua chưa trả đủ tiền, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu. Nếu bên mua chưa trả đủ tiền, thì phải trả cho bên bán khoản tiền còn thiếu tính theo giá trị của nhà ở đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán. Bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà có lỗi và gây thiệt hại, thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự.

3. Trong trường hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu để thực hiện hợp đồng mua bán nhà ở đã được hoàn tất, nhưng bên bán chưa giao nhà hoặc bên mua chưa trả đủ tiền, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác; nếu bên mua chưa trả đủ tiền, thì phải trả cho bên bán khoản tiền còn thiếu tính theo giá trị của nhà ở đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán. Bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà có lỗi và gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự.

4. Trong trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện, thì hợp đồng mua bán nhà ở đó được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.

5. Hợp đồng mua bán nhà ở mà toàn bộ hoặc một phần nội dung vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật dân sự thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật dân sự.

Điều 6. Đổi nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

2. Trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì giải quyết như sau:

a) Nếu các bên đã giao nhà ở cho nhau, thì các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu ;

b) Nếu một bên đã giao nhà ở mà bên kia chưa giao, thì bên chưa giao nhà ở phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng;

c) Nếu các bên mới giao một phần nhà ở cho nhau, thì mỗi bên phải giao nốt phần còn lại cho bên kia;

d) Nếu các bên đã giao nhà ở cho nhau mà có chênh lệch về giá trị và bên có nghĩa vụ thanh toán chưa trả đủ tiền, thì phải trả cho bên kia khoản tiền còn thiếu theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán. Bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà có lỗi và gây thiệt hại, thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự;

đ) Nếu các bên chưa giao nhà ở cho nhau, thì hợp đồng bị huỷ bỏ.

3. Trong trường hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu để thực hiện hợp đồng đổi nhà ở đã được hoàn tất mà các bên chưa giao nhà ở cho nhau hoặc một bên chưa giao nhà ở cho bên kia, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.

4. Trong trường hợp các bên chỉ đổi cho nhau quyền sử dụng nhà ở mà không chuyển quyền sở hữu nhà ở, nếu xảy ra tranh chấp, thì giải quyết như sau:

a) Nếu một bên đã giao nhà ở mà bên kia chưa giao, thì bên chưa giao phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà có lỗi và gây thiệt hại, thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự;

b) Nếu hợp đồng có thời hạn, thì khi thời hạn đó đã hết, các bên phải trở lại tình trạng ban đầu trong thời hạn một tháng kể từ ngày hết hạn, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác; nếu hợp đồng không xác định thời hạn, thì một trong các bên có quyền yêu cầu trở lại tình trạng ban đầu, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên kia biết trước ít nhất là ba tháng.

5. Hợp đồng đổi nhà ở mà toàn bộ hoặc một phần nội dung vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật dân sự thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật dân sự.

Điều 7. Tặng cho nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì bên được tặng cho phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

2. Trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì giải quyết như sau:

a) Nếu bên được tặng cho đã nhận nhà ở, thì nhà ở đó thuộc quyền sở hữu của bên được tặng cho và bên được tặng cho phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu;

b) Nếu bên được tặng cho chưa nhận nhà ở, thì hợp đồng tặng cho nhà ở bị huỷ bỏ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

3. Trong trường hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu để thực hiện hợp đồng tặng cho nhà ở đã hoàn tất mà nhà ở chưa được giao cho bên được tặng cho, thì bên tặng cho phải giao nhà ở đó cho bên được tặng cho trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày bên được tặng cho có yêu cầu bằng văn bản, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

4. Trong trường hợp hợp đồng tặng cho nhà ở có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện, thì hợp đồng tặng cho nhà ở đó được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.

5. Hợp đồng tặng cho nhà ở mà toàn bộ hoặc một phần nội dung vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật dân sự thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật dân sự.

Điều 8. Thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở

Thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với các trường hợp quy định tại các Điều 5, 6 và 7 của Nghị quyết này được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Điều 9. Thừa kế nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

Đối với trường hợp thừa kế nhà ở được mở trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 mà di sản thừa kế chưa được chia, nếu có yêu cầu chia, thì giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.

Điều 10. Quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp trước khi đi vắng, chủ sở hữu nhà ở đã có uỷ quyền quản lý hợp pháp và cho đến ngày 1 tháng 7 năm 1996 (ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực) chưa hết thời hạn uỷ quyền hoặc tuy có uỷ quyền hợp pháp nhưng không xác định thời hạn uỷ quyền, thì việc thực hiện nội dung uỷ quyền theo quy định của Bộ luật dân sự; nếu chủ sở hữu nhà ở đó đã chết, thì việc uỷ quyền chấm dứt và việc thừa kế nhà ở đó được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự.

2. Trong trường hợp trước khi đi vắng, chủ sở hữu nhà ở đã có uỷ quyền quản lý hợp pháp và thời hạn uỷ quyền đã hết trước ngày 1 tháng 7 năm 1996, thì giải quyết như sau:

a) Nếu chủ sở hữu có yêu cầu lấy lại nhà trước ngày 1 tháng 7 năm 1996, thì nhà ở đó được trả lại cho chủ sở hữu; nếu chủ sở hữu đã chết, thì công nhận quyền sở hữu cho những người thừa kế;

b) Nếu chủ sở hữu không có yêu cầu lấy lại nhà trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 hoặc đã chết và trước khi chết không có yêu cầu lấy lại nhà, thì công nhận quyền sở hữu cho bố, mẹ, vợ, chồng, con của người đó đang quản lý, sử dụng nhà ở đó;

c) Nếu không có những người được quy định tại điểm a và điểm b khoản này, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

3. Trong trường hợp trước khi đi vắng, nếu chủ sở hữu nhà ở không có uỷ quyền quản lý hợp pháp thì công nhận quyền sở hữu cho bố, mẹ, vợ, chồng, con của người đó đang quản lý, sử dụng nhà ở đó; nếu không có những người nói trên, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

4. Trong trường hợp nhà ở vắng chủ vì chủ sở hữu đi hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến, thì nhà ở đó được trả lại cho chủ sở hữu. Nếu chủ sở hữu đã chết, thì nhà ở đó thuộc sở hữu của những người thừa kế. Trong trường hợp không có người thừa kế, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

5. Trong trường hợp người đang trực tiếp quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ được quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này không được công nhận là chủ sở hữu nhà ở đó, thì có quyền yêu cầu người được công nhận là chủ sở hữu phải đền bù một khoản chi phí hợp lý do đã trông nom, bảo quản nhà ở đó.

Điều 11. Sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới

1. Đối với nhà ở cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ giữa cá nhân với cá nhân mà đã được bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới trong khuôn viên nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, thì việc lấy lại nhà ở đó được thực hiện theo quy định sau đây:

a) Đối với trường hợp nhà ở đã được sửa chữa, thì khi lấy lại nhà, bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư sửa chữa còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

b) Đối với trường hợp nhà ở đã được cải tạo, nâng cấp mà không có sự phản đối của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ, thì khi lấy lại nhà, bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư cải tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

Trong trường hợp đã có sự phản đối của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ, thì khi lấy lại nhà, bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán một phần giá trị đầu tư cải tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

c) Đối với trường hợp bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ nhà ở đã làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới trong khuôn viên nhà thuê, mượn, ở nhờ, nếu các bên không có thoả thuận khác, thì giải quyết như sau:

- Trong trường hợp bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ đã đồng ý bằng văn bản hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 không khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới và nếu diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới có thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ giá trị quyền sử dụng đất theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ tuy đã đồng ý bằng văn bản hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 không khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới, nhưng nếu diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới không thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp không được bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 đã có khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới, thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ một phần giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ bị phá dỡ và bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ đã xây dựng nhà ở mới thay thế, nếu việc phá dỡ có sự đồng ý bằng văn bản của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 mà bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ không khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư xây dựng còn lại của nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Nếu không được bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ đồng ý hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 đã có khiếu kiện, thì bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ chỉ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ một phần giá trị đầu tư xây dựng còn lại của nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

Trong trường hợp các bên có thoả thuận nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ, thì bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ giá trị quyền sử dụng đất theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

2. Đối với trường hợp quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân mà người đang quản lý, sử dụng đã sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới, thì giải quyết như sau:

a) Đối với trường hợp nhà ở đã được sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, thì khi lấy lại nhà người được công nhận là chủ sở hữu nhà ở đó phải thanh toán cho bên đã sửa chữa, cải tạo, nâng cấp giá trị đầu tư sửa chữa, cải tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

b) Đối với trường hợp làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới trong khuôn viên nhà vắng chủ, thì giải quyết như sau:

- Trong trường hợp diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới có thể sử dụng một cách riêng biệt với nhà vắng chủ, thì diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của người làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới và họ phải thanh toán cho người được công nhận là chủ sở hữu nhà vắng chủ giá trị quyền sử dụng đất theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới không thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà vắng chủ, thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của người được công nhận là chủ sở hữu nhà vắng chủ, nhưng chủ sở hữu nhà vắng chủ phải thanh toán cho người làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp người đang quản lý, sử dụng đã phá dỡ nhà vắng chủ và xây dựng nhà ở mới thay thế, thì người được công nhận là chủ sở hữu nhà vắng chủ được quyền sở hữu nhà ở mới đó và phải thanh toán cho người đã xây dựng nhà ở mới giá trị đầu tư xây dựng còn lại của nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp nhà vắng chủ không còn vì lý do bất khả kháng và người đang quản lý, sử dụng đã xây dựng nhà ở mới thay thế, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở mới đó cho người quản lý, sử dụng đã xây dựng nhà ở mới thay thế và họ phải thanh toán cho người được công nhận là chủ sở hữu nhà vắng chủ giá trị quyền sử dụng đất theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

Mục 3.

GIAO DỊCH DÂN SỰ VỀ NHÀ Ở GIỮA CÁ NHÂN VỚI CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Điều 12. Cơ quan, tổ chức thuê nhà ở của cá nhân

1. Đối với hợp đồng thuê nhà ở mà nhà đó đang được sử dụng để ở, thì giải quyết như sau:

a) Trong trường hợp nhà thuê đang được sử dụng cho cá nhân ở mà thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực hoặc thời hạn thuê nhà ở không được xác định trong hợp đồng, thì bên thuê là cơ quan, tổ chức đang quản lý nhà ở đó phải trả lại nhà cho bên cho thuê, kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

Trong trường hợp bên thuê là cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động mà không có cơ quan, tổ chức nào quản lý nhà ở đó, thì cá nhân đang trực tiếp sử dụng nhà ở đó thoả thuận với bên cho thuê để giải quyết; nếu không thoả thuận được, thì bên cho thuê được lấy lại nhà, kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng;

b) Trong trường hợp nhà thuê đang được sử dụng cho cá nhân ở và cho đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng vẫn còn, nếu thời hạn thuê kết thúc trước ngày 1 tháng 7 năm 2005, thì bên thuê là cơ quan, tổ chức đang quản lý nhà ở đó phải trả lại nhà cho bên cho thuê kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2005; nếu thời hạn thuê kết thúc sau ngày 1 tháng 7 năm 2005, thì bên cho thuê được lấy lại nhà theo quy định của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

Trong trường hợp bên thuê là cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động mà không có cơ quan, tổ chức nào quản lý nhà ở đó và thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng kết thúc trước ngày 1 tháng 7 năm 2005, thì cá nhân trực tiếp sử dụng nhà ở đó thoả thuận với bên cho thuê để giải quyết; nếu không thoả thuận được, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng; nếu thời hạn thuê kết thúc sau ngày 1 tháng 7 năm 2005, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở theo quy định của Bộ luật dân sự;

c) Trong trường hợp cá nhân được tiếp tục ở nhà thuê theo quy định tại điểm a và điểm b khoản này mà phát sinh các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 3 của Nghị quyết này, thì thực hiện theo quy định tại các điểm đó.

2. Đối với hợp đồng thuê nhà ở mà nhà đó đang được sử dụng làm trụ sở làm việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình công cộng, thì giải quyết như sau:

a) Trong trường hợp thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực hoặc thời hạn thuê nhà ở không được xác định trong hợp đồng, thì các bên thoả thuận để giải quyết; nếu không thoả thuận được, thì cơ quan, tổ chức đang quản lý, sử dụng nhà ở đó phải trả lại nhà cho bên cho thuê, kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2002;

b) Trong trường hợp cho đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng vẫn còn, nhưng kết thúc trước ngày 1 tháng 7 năm 2002, thì các bên thoả thuận để giải quyết; nếu không thoả thuận được, thì cơ quan, tổ chức đang quản lý, sử dụng nhà ở đó phải trả lại nhà cho bên cho thuê kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2002; nếu thời hạn thuê nhà ở kết thúc sau ngày 1 tháng 7 năm 2002, thì được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự.

3. Các quy định tại các khoản 6, 7 và 8 Điều 3 của Nghị quyết này cũng được áp dụng để giải quyết hợp đồng thuê nhà ở giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức.

Điều 13. Cơ quan, tổ chức mượn nhà ở của cá nhân

1. Trong trường hợp nhà mượn đang được sử dụng cho cá nhân ở, thì việc giải quyết được áp dụng theo quy định tại Điều 4 của Nghị quyết này.

Trong trường hợp nhà mượn đã được cơ quan, tổ chức bán hoặc cho thuê, thì hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê bị vô hiệu và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật dân sự.

2. Trong trường hợp nhà mượn đang được sử dụng làm trụ sở làm việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình công cộng, thì việc giải quyết được áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 12 của Nghị quyết này.

Điều 14. Phương thức trả nhà ở

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức phải trả nhà ở cho bên cho thuê, bên cho mượn, thì tuỳ từng trường hợp việc trả có thể được thực hiện theo những phương thức sau đây:

1. Trả lại nhà mà cơ quan, tổ chức đang quản lý, sử dụng;

2. Trả bằng nhà khác ;

3. Trả bằng tiền ;

4. Nhà nước giao đất ở không phải trả tiền sử dụng đất.

Điều 15. Mua bán nhà ở, đổi nhà ở, tặng cho nhà ở, thừa kế nhà ở giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức

1. Việc giải quyết hợp đồng mua bán nhà ở được áp dụng theo quy định tại Điều 5 của Nghị quyết này.

2. Việc giải quyết hợp đồng đổi nhà ở được áp dụng theo quy định tại Điều 6 của Nghị quyết này.

3. Việc giải quyết hợp đồng tặng cho nhà ở được áp dụng theo quy định tại Điều 7 của Nghị quyết này.

4. Việc giải quyết thừa kế nhà ở được áp dụng theo quy định tại Điều 9 của Nghị quyết này.

Điều 16. Sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới

Việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới được giải quyết như sau:

1. Trong trường hợp nhà đó đang được sử dụng để ở, thì việc giải quyết được áp dụng theo quy định tại Điều 11 của Nghị quyết này;

2. Trong trường hợp nhà đó đang được sử dụng để làm cơ sở sản xuất, kinh doanh, trụ sở làm việc, công trình công cộng, thì việc giải quyết do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được, thì việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp được giải quyết theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 11 của Nghị quyết này, còn diện tích làm thêm, nhà ở mới được công nhận quyền sở hữu cho bên cho thuê, cho mượn nhưng họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, nhà ở mới đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán.

Mục 4.

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 17. Áp dụng các quy định của Nghị quyết để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991

1. Việc áp dụng các quy định của Nghị quyết này trong quá trình giải quyết các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1tháng 7 năm 1991 được thực hiện như sau:

a) Đối với những vụ án đã được Toà án nhân dân thụ lý, nhưng chưa được xét xử sơ thẩm trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực pháp luật, những vụ án mà bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị hợp lệ, nhưng chưa được xét xử phúc thẩm trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực pháp luật, những vụ án mà bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, nhưng chưa được xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực pháp luật, thì áp dụng những quy định của Nghị quyết này để giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự;

b) Đối với những vụ án đã được Toà án nhân dân giải quyết theo đúng các văn bản pháp luật trước đây và bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, thì không căn cứ vào các quy định của Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;

c) Đối với những vụ án về đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân đã được Toà án nhân dân xét xử, bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà Toà án đã bác yêu cầu đòi lại nhà do chưa đủ điều kiện lấy lại nhà ở, nay đương sự lại có đơn khởi kiện, thì Toà án thụ lý giải quyết như một vụ án dân sự mới.

2. Thời gian từ ngày 1 tháng 7 năm 1996 đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực không tính vào thời hiệu trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991.

Điều 18. Điều khoản thi hành

Nghị quyết này có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1999.

Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình hướng dẫn thi hành Nghị quyết này.

Nông Đức Mạnh

(Đã ký)

75
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tải về Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 do Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ban hành
Tải văn bản gốc Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 do Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ban hành
Chưa có văn bản song ngữ
Văn bản được hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản được hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản bị đính chính - [0]
[...]
Văn bản bị thay thế - [0]
[...]
Văn bản được dẫn chiếu - [0]
[...]
Văn bản được căn cứ - [0]
[...]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [1]
[...]
Văn bản đang xem
Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 do Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ban hành
Số hiệu: 58/1998/NQ-UBTVQH10
Loại văn bản: Nghị quyết
Lĩnh vực, ngành: Bất động sản,Quyền dân sự
Nơi ban hành: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Người ký: Nông Đức Mạnh
Ngày ban hành: 20/08/1998
Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày đăng: Đã biết
Số công báo: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản liên quan cùng nội dung - [0]
[...]
Văn bản hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản đính chính - [0]
[...]
Văn bản thay thế - [0]
[...]
[...] Đăng nhập tài khoản TVPL Basic hoặc TVPL Pro để xem toàn bộ lược đồ văn bản
Khái niệm, thuật ngữ của Nghị quyết này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Ngày 20 tháng 8 năm 1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998). Để áp dụng đúng các quy định của Nghị quyết này, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số vấn đề sau dây:

I. VỀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM, THUẬT NGỮ TRONG NGHỊ QUYẾT SỐ 58/1998

1. "Chủ sở hữu nhà ở" là người có quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với nhà ở theo quy định của pháp luật.

2. "Bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ, bên bán, bên tặng cho nhà ở, các bên đổi nhà ở " có thể là một trong những người sau đây:

a) Chủ sở hữu nhà ở;

b) Người thừa kế hợp pháp nhà ở (người thừa kế có thể trực tiếp giao kết hợp đồng tại thời điểm giao kết hoặc đương nhiên họ là bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ, bên bán, bên tặng cho nhà ở, các bên đổi nhà ở tại thời điểm xảy ra tranh chấp);

c) Người được chủ sở hữu nhà ở uỷ quyền phù hợp với các quy định của pháp luật về uỷ quyền tại thời điểm uỷ quyền.

3. "Bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ nhà ở" có thể là một trong những người sau đây:

a) Người trực tiếp giao kết hợp đồng, người có tên trong hợp đồng thuê nhà ở, mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở cùng bên thuê nhà ở, bên mượn nhà ở, bên ở nhờ nhà ở;

b) Người có đăng ký thường trú và đang ở tại nhà ở đó mà không phải là người chiếm hữu bất hợp pháp trong trường hợp không còn những người thuộc điểm a khoản này.

4. "Bên mua nhà ở" có thể là một trong những người sau đây:

a) Người trực tiếp giao kết hợp đồng mua bán nhà ở, người có tên trong hợp đồng mua bán nhà ở cùng bên nhà ở;

b) Người thừa kế hợp pháp của người thuộc điểm a khoản này;

Người mua cuối cùng nhà ở (hoặc người thừa kế hợp pháp của họ) trong trường hợp nhà ở đó đã được mua bán qua nhiều lần.

5. "Bên được tặng cho nhà ở" có thể là một trong những người sau đây:

a) Người có tên trong hợp đồng tặng cho nhà ở;

b) Người thừa kế hợp pháp của người được tặng cho nhà ở tại thời điểm xảy ra tranh chấp.

6. "Hợp đồng thuê nhà ở" là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê nhà ở giao nhà ở cho bên thuê để sử dụng (có thời hạn hoặc không có thời hạn) và nhận tiền thuê, còn bên thuê nhà ở được sử dụng nhà ở đó để ở và phải trả tiền thuê nhà ở theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

Được coi là hợp đồng thuê nhà ở khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Có hợp đồng bằng văn bản (có thể có xác nhận hoặc không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền);

b) Người ở tại nhà ở đó chứng minh được là họ đang sử dụng nhà ở đó theo quan hệ thuê nhà ở;

c) Một trong ngững người thuộc một trong các điểm a, b, c, khoản 2 Mục I Thông tư này chứng minh được rằng họ cho thuê nhà ở đó mà không phải là họ bán, tặng cho, cho ở nhờ nhà ở đó.

7. "Bên thuê nhà ở đã có chỗ ở khác" khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Bên thuê nhà ở đã tạo lập được chỗ ở khác thông qua các hình thức, như mua được, xây dựng được nhà ở, thuê được nhà ở khác;

b) Bên thuê nhà ở được thừa kế, được tặng cho nhà ở trên địa bàn nội thành thành phố trực thuộc trung ương, trên địa bàn huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc tuy không ở trên địa bàn nêu trên nhưng không quá xa với nhà ở thuê và nếu bên thuê chuyển đến nhà ở đó thì không bị trở ngại lớn trong việc đi lại làm ăn, học tập... của các thành viên trong hộ gia đình bên thuê;

c) Một trong những người là bố, mẹ, vợ, chồng, con của bên thuê có đăng ký thường trú và cùng ở chung tại nhà ở thuê, nhưng đã tách hộ ra và đã dùng tài sản chung của gia đình để tạo lập được chỗ ở khác và nếu đưa những người đang ở tại nhà ở thuê về ở chung thì diện tích ở bình quân không dưới 6m2/người hoặc tuy dùng tài sản riêng để tạo lập được chỗ ở khác và họ tự nguyện để những người đang ở tại nhà ở thuê về ở chung.

8. "Bên thuê nhà ở có điều kiện tạo lập chỗ ở khác" khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Bên thuê đã được Nhà nước giao đất để xây dựng nhà ở, nhưng chưa xây hoặc xây chưa xong;

b) Bên thuê cũng có nhà ở cho thuê và có khả năng lấy lại được;

c) Bên thuê có điều kiện về kinh tế để có thể mua được nhà ở khác.

9."Bên cho thuê đã tự nguyện tạo điều kiện cho bên thuê có chỗ ở khác" khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Bên cho thuê đã thuê chỗ ở khác với điều kiện và thời hạn phù hợp (như thuê nhà ở thuộc quỹ nhà ở của Nhà nước, thuê nhà ở của cá nhân có thời hạn tương ứng với thời hạn còn lại của hợp đồng hoặc thời hạn thuê kéo dài cho đến ngày 1-7-2005) để chuyển người thuê đến ở;

b) Bên cho thuê đã mua chỗ ở khác có đủ điều kiện cần thiết phù hợp với hoàn cảnh từng địa phương trên địa bàn nội thành thành phố trực thuộc Trung ương, trên địa bàn huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc tuy không ở trên địa bàn nêu trên, nhưng không qua xa với nhà ở thuê và nếu bên thuê chuyển đến nhà ở đó thì không bị trở ngại lớn trong việc đi lại làm ăn, học tập... của các thành viên trong hộ gia đình bên thuê (có thể bên thuê được bên cho thuê cho nhà ở đó, cho thuê nhà ở đó, cho ở nhờ nhà ở đó...).

10. "Hợp đồng mượn nhà ở" là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn nhà ở giao nhà ở cho bên mượn để sử dụng mà không phải trả tiền, còn bên mượn nhà ở được sử dụng nhà ở đó để ở (có thời hạn hoặc không có thời hạn) và phải trả lại nhà ở đó khi hết hạn mượn hoặc theo yêu cầu của bên cho mượn (nếu hợp đồng mượn nhà ở không có thời hạn).

Được coi là hợp đồng mượn nhà ở khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Có hợp đồng bằng văn bản (có thể có xác nhận hoặc không có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền):

Người đang ở tại nhà ở đó không chứng minh được việc họ ở tại nhà ở đó theo quan hệ hợp đồng thuê nhà ở, mua bán nhà ở, tặng cho nhà ở;

c) Một trong những người thuộc một trong các điểm a, b và c khoản 2 Mục I Thông tư này chứng minh được rằng hộ đang cho ở nhờ nhà ở đó mà không phải cho thuê, bán, tặng cho nhà ở đó.

11. "Hợp đồng ở nhờ nhà ở" được xác định tương tự như việc xác định hợp đồng mượn nhà ở.

12. "Hợp đồng mua bán nhà ở" là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán nhà ở có nghĩa vụ giao nhà ở và chuyển quyền sở hữu nhà ở đó cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận nhà ở và trả tiền cho bên bán.

Được coi là hợp đồng mua bán nhà ở khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Có hợp đồng bằng văn bản (có thể có xác nhận hoặc không có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; bên mua đã nhận hoặc chưa nhận nhà ở);

b) Người đang ở tại nhà ở đó chứng minh được là họ đã mua nhà ở đó một cách hợp pháp;

c) Một trong những người thuộc một trong các điểm a, b, và c khoản 2 Mục I Thông tư này thừa nhận đã bán nhà ở đó.

Xem nội dung VB
NGHỊ QUYẾT VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VỀ NHÀ Ở ĐƯỢC XÁC LẬP TRƯỚC NGÀY 1 THÁNG 7 NĂM 1991
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở được hướng dẫn bởi Chương 8 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 8:CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở

Điều 24. Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở

1. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại nội thành, nội thị xã, thị trấn do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp theo mẫu quy định tại Nghị định số 60/CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ.

2. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại nông thôn do Uỷ ban nhân dân huyện cấp theo mẫu quy định tại Nghị định số 60/CP ngày 05 tháng7 năm 1994 của Chính phủ.

Điều 25. Thời hạn cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày người được công nhận có quyền sở hữu nhà ở nộp đủ hồ sơ và thực hiện xong các nghĩa vụ tài chính theo quy định tại Nghị định này, ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy định tại Điều 24 của Nghị định này cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho đương sự. Trong trường hợp kéo dài thời hạn nêu trên thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự biết lý do và thời hạn kéo dài không được quá 30 ngày.

Điều 26. Nghĩa vụ tài chính

Người được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước và đối với các bên có liên quan theo quy định của pháp luật.

Xem nội dung VB
NGHỊ QUYẾT VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VỀ NHÀ Ở ĐƯỢC XÁC LẬP TRƯỚC NGÀY 1 THÁNG 7 NĂM 1991
Khái niệm, thuật ngữ của Nghị quyết này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở được hướng dẫn bởi Chương 8 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Mục II Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Ngày 20 tháng 8 năm 1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998). Để áp dụng đúng các quy định của Nghị quyết này, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số vấn đề sau dây:
...
II. VỀ PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA NGHỊ QUYẾT SỐ 58/1998

1. Toà án chỉ áp dụng các quy định của Nghị quyết số 58/1998 để giải quyết các yêu cầu về giao dịch dân sự về nhà ở được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết này; cụ thể là: thuê nhà ở; cho mượn, cho ở nhờ nhà ở; mua bán nhà ở; đổi nhà ở; tặng cho nhà ở; thừa kế nhà ở giữa cá nhân với các nhân, giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức và quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân.

2. Đối với các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch dân sự về nhà ở quy định tại khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 58/1998 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia, thì trong khi chưa có chính sách của Nhà nước đối với loại giao dịch dân sự này, tuỳ từng trường hợp mà Toà án xử lý như sau:

a) Nếu chưa thụ lý, thì không thụ lý;

b) Nếu đã thụ lý và đang giải quyết, thì ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết;

c) Nếu đã có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết, thì tiếp tục tạm đình chỉ việc giải quyết.

3. Được áp dụng các quy định của Nghị quyết số 58/1998 để giải quyết mà không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết này, nếu khi cho thuê nhà ở, cho mượn, cho ở nhờ nhà ở, mua bán nhà ở... một trong các bên là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc sau khi cho thuê nhà ở, cho mượn, cho ở nhờ nhà ở, mua bán nhà ở... một trong các bên là công dân Việt Nam ra định cư ở nước ngoài, nhưng nay họ đều đã về định cư ở Việt Nam và có tranh chấp.

4. Khi thụ lý, giải quyết các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991 cần chú ý xem tranh chấp cụ thể đó có thuộc trường hợp nào quy định tại khoản 1 Điều 17 của Nghị quyết số 58/1998 hay không; néu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 17 của Nghị quyết này, thì Toà án phải thực hiện đúng các quy định này.

Xem nội dung VB
Điều 1. Nguyên tắc giải quyết Các giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (ngày Pháp lệnh nhà ở năm 1991 có hiệu lực) được giải quyết theo quy định của Nghị quyết này; việc giải quyết phải được thực hiện từng bước phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

1. Khuyến khích, tôn trọng sự thoả thuận của các bên tham gia giao dịch dân sự, phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong nội bộ nhân dân; tránh lãng phí của cải, vật chất phát sinh do việc đòi lại nhà gây ra;

2. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; trong quá trình giải quyết cần quan tâm thích đáng đối với bên tham gia giao dịch dân sự là người có công với cách mạng, người thuộc diện được hưởng chính sách xã hội, người nghèo đang phải thuê nhà ở, mượn nhà ở;

3. Giữ vững ổn định xã hội, có khả năng thực thi và được nhân dân đồng tình.
Điều này được hướng dẫn bởi Mục II Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Giải quyết tranh chấp về hợp đồng thuê nhà ở giữa cá nhân với cá nhân được hướng dẫn bởi Khoản 1 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Ngày 20 tháng 8 năm 1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998). Để áp dụng đúng các quy định của Nghị quyết này, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số vấn đề sau dây:
...
III. VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP CỤ THỂ

Khi giải quyết các tranh chấp cụ thể phát sinh từ các giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991, Toà án phải thực hiện đúng nguyên tắc giải quyết được quy định tại Điều 1 của Nghị quyết số 58/1998. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được với nhau và yêu cầu Toà án giải quyết, thì việc giải quyết các tranh chấp cụ thể như sau:

1. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng thuê nhà ở giữa cá nhân với cá nhân.

Khi đã xác định được quan hệ giữa các bên là hợp đồng thuê nhà ở như đã hướng dẫn tại khoản 6 Mục I Thông tư này, thì Toà án tiến hành giải quyết theo quy định tại Điều 3 của Nghị quyết số 58/1998. Khi giải quyết loại tranh chấp này cần chú ý các điểm sau:

a) Nếu thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết số 58/1998 có hiệu lực (1-1-1999), thì Toà án cho bên cho thuê được lấy lại nhà ở khi thuộc một trong các trường hợp sau:

Bên thuê nhà ở đã có chỗ ở khác như đã hướng dẫn tại khoản 7 Mục I Thông tư này và bên cho thuê đã thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước về việc đòi lại nhà ở cho thuê với thời hạn ít nhất là ba tháng trưóc ngày nộp đơn khởi kiện.

- Bên thuê nhà ở có điều kiện tạo lập chỗ ở khác như đã hướng dẫn tại khoản 8 Mục I Thông tư này và bên cho thuê đã thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước về việc đòi lại nhà ở cho thuê với thời hạn ít nhất là sáu tháng trước ngày nộp đơn khởi kiện.

- Bên cho thuê đã tự nguyện tạo điều kiện cho bên thuê có chỗ ở khác như đã hướng dẫn tại khoản 9 Mục I Thông tư này và bên cho thuê đã thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước về việc đòi lại nhà ở cho thuê với thời hạn ít nhất là sáu tháng trước ngày nộp đơn khởi kiện.

b) Nếu thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết số 58/1998 có hiệu lực (1-1-1999) mà bên cho thuê không có chỗ ở (như họ hồi cư về địa phương nơi họ có nhà ở cho thuê; họ phải trả nhà ở thuê, nhà ở nhờ; do thiên tai, địch hoạ mà họ bị mất nhà ở...) và họ không có điều kiện về kinh tế để tạo lập chỗ ở khác, đồng thời họ đã thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước về việc đòi lại nhà ở cho thuê với thời hạn ít nhất là ba tháng trước ngày nộp đơn khởi kiện, thì tuỳ từng trường hợp mà Toà án có thể giải quyết cho bên cho thuê được lấy lại toàn bộ hoặc một phần nhà ở; cụ thể là:

- Toà án cho bên cho thuê được lấy lại toàn bộ nhà ở khi thuộc một trong các trường hợp sau:

+ Nếu lấy tổng diện tích ở của nhà ở cho thuê (kể cả diện tích ở được làm thêm) chia cho số người trong hộ gia đình của bên cho thuê mà bình quân bằng hoặc dưới 6m2/người;

+ Nếu lấy tổng diện tích ở của nhà ở cho thuê (kể cả diện tích ở được làm thêm) chia cho số người trong hộ gia đình của bên cho thuê mà mức bình quân trên 6m2/người nhưng bằng hoặc dưới 10m2/người và nếu lấy tổng diện tích ở (kể cả diện tích ở được làm thêm) của nhà ở cho thuê chia cho tổng số người trong hai hộ gia đình bên cho thuê và bên thuê mà mức bình quân dưới 3m2/người;

+ Nhà ở cho thuê không thể đáp ứng được các điều kiện tối thiểu để cho cả gia đình bên cho thuê và bên thuê ở chung trong nhà ở đó;

- Toà án cho bên cho thuê được lấy lại một phần nhà ở khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Nếu lấy tổng diện tích ở của nhà ở cho thuê (kể cả diện tích ở được làm thêm) chia cho tổng số người trong hai hộ gia đình của bên cho thuê và bên thuê mà mức bình quân bằng hoặc trên 6m2/người, thì Toà án cho bên thuê được thuê diện tích đủ mức bình quân bằng 6m2/người, nhưng diên tích ở cho thuê không dưới 10m2; phần diện tích ở còn lại cho bên cho thuê được lấy lại.

+ Nếu lấy tổng diện tích ở của nhà ở cho thuê (kể cả diện tích ở được làm thêm) chia cho tổng số người trong hai hộ gia đình của bên cho thuê và bên thuê mà mức bình quân bằng hoặc trên 3m2/người nhưng dưới 6m2/người, thì Toà án cho bên thuê được lấy lại phần diện tích ở bằng tổng số người trong hộ gia đình của bên cho thuê nhân với mức bình quân này.

c) Nếu thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết số 58/1998 có hiệu lực (1-1-1999) mà bên cho thuê tuy có nhà ở, nhưng có diện tích ở dưới mức bình quân 6m2/người và bên thuê không có chỗ ở khác hoặc không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác, đồng thoèi bên cho thuê đã thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là 6 tháng trước ngày nộp đơn khởi kiện, thì Toà án cho bên thuê được lấy lại một phần nhà ở khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Nếu lấy tổng số diện tích ở của nhà ở mà bên cho thuê đang ở và nhà ở cho thuê (kể cả diện tích ở được làm thêm) chia cho tổng số người trong hai hộ gia đình của bên cho thuê và bên thuê mà mức bình quân bằng hoặc trên 6m2/người, thì Toà án cho bên thuê được thuê diện tích đủ mức bình quân bằng 6m2/người, nhưng diện tích ở cho thuê không dưới 10m2; phần diện tích ở còn lại cho bên cho thuê được lấy lại.

- Nếu lấy diện tích ở của nhà ở mà bên cho thuê đang ở và nhà ở cho thuê (kể cả diện tích ở được làm thêm) chia cho tổng số người trong hai hộ gia đình của bên cho thuê và bên thuê mà mức bình quân dưới 6m2/người, nhưng nếu lấy tổng diện tích ở của nhà ở cho thuê (kể cả diện tích ở được làm thêm) chia cho tổng số người trong hộ gia đình của bên thuê mà mức bình quân trên 6m2/người, thì Toà án cho bên thuê được thuê diện tích đủ mức bình quân 6m2/người, nhưng diện tích ở cho thuê không dưới 10m2; phần diện tích ở còn lại cho bên cho thuê được lấy lại.

d) Nếu thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết số 58/1998 có hiệu lực (1-1-1999) mà bên cho thuê tuy có nhà ở, nhưng có khó khăn về đời sống, còn bên thuê không có chỗ ở khác và không có đủ điều kiện tạo lập chỗ ở khác, đồng thời bên cho thuê đã thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là 6 tháng trước ngày nộp đơn khởi kiện, thì Toà án cho bên cho thuê được lấy lại một phần nhà ở để họ có thể bán lại, cho thuê lại phần nhà ở đó với giá cao hơn giá đang cho thuê hoặc để sử dụng phần nhà ở đó nhằm mục đích kinh doanh.

đ) Khi xem xét giải quyết cho lấy lại một phần nhà ở được hướng dẫn tại các điểm b và c khoản này cần chú ý không được máy móc giải quyết trong mọi trường hợp đều cho lấy lại một phần nhà ở theo mức được hướng dẫn tại các điểm tương ứng trên đây mà cần phải xem xét từng trường hợp cụ thể để có quyết định hợp lý; cụ thể là phải xem xét kiến trúc ngôi nhà, bố trí diện tích ở, diện tích được lấy lại có đủ điều kiện để sử dụng độc lập hay không...

Ví dụ: Nếu để lại diện tích ở cho thuê theo hướng dẫn trên đây là 14 m2, nhưng có một phòng ở 15m2 hoặc 13 m2 bảo đảm sinh hoạt tối thiểu của bên thuê, thì Toà án giải quyết cho bên thuê được thuê phòng ở đó. Ngoài ra cần chú ý đến lối đi và các điều kiện khác của nhà ở đó đảm bảo cho việc sinh hoạt tối thiểu của các bên.

Khi xem xét giải quyết cho lấy lại một phần nhà ở được hướng dẫn tại điểm d khoản này, cần chú ý phải xem xét từng trường hợp cụ thể để có quyết định hợp lý; cụ thể là phải xem xét kiến trúc ngôi nhà, bố trí diện tích ở, lối đi và các điều kiện khác của nhà ở đó, đặc biệt phải chú ý bảo đảm cho việc sinh hoạt tối thiểu của bên thuê nhà sau khi Toà án cho bên cho thuê nhà được lấy lại một phần nhà ở.

e) Trong trường hợp bên cho thuê chưa lấy lại được nhà ở theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 3 của Nghị quyết số 58/1998 và theo hướng dẫn tại các điểm a, b, c và d khoản này, thì Toà án cần giải thích cho đương sự biết là họ được lấy lại nhà ở kể từ ngày 1-7-2005, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là 3 tháng; nếu từ khi bị Toà án bác yêu cần đòi nhà ở cho thuê đến trước ngày 1-7-2005 mà phát sinh các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a, b, c và d khoản này thì họ có quyền yêu cầu lấy lại toàn bộ hoặc một phần nhà ở.

g) Nếu hợp đồng thuê nhà ở theo quy định tại khoản 3 và khoản 5 Điều 3 của Nghị quyết số 58/1998 đến trước ngày 1-7-2005 mà phát sinh các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 3 của Nghị quyết này và có tranh chấp, thì thực hiện theo các hướng dẫn tương ứng tại các điểm a, b, c và d khoản này để giải quyết.

Xem nội dung VB
Điều 3. Thuê nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực, thì bên cho thuê và bên thuê có thể thoả thuận tiếp tục việc thuê; nếu thoả thuận được thì các bên phải ký kết hợp đồng thuê nhà ở theo quy định của Bộ luật dân sự.

2. Trong trường hợp thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà các bên không thoả thuận được về việc tiếp tục thuê, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở theo quy định sau đây:

a) Trong trường hợp bên thuê đã có chỗ ở khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng;

b) Trong trường hợp bên thuê có điều kiện tạo lập chỗ ở khác hoặc bên cho thuê đã tự nguyện tạo điều kiện cho bên thuê có chỗ ở khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là sáu tháng;

c) Trong trường hợp bên cho thuê không có chỗ ở và không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác, thì tuỳ từng trường hợp mà bên cho thuê được lấy lại một phần hoặc toàn bộ nhà ở, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng;

d) Trong trường hợp bên cho thuê tuy có nhà ở nhưng có khó khăn về đời sống hoặc có diện tích ở dưới mức bình quân 6m2/người và bên thuê không có chỗ ở khác hoặc không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác, thì tuỳ từng trường hợp mà bên cho thuê được lấy lại một phần nhà cho thuê, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là sáu tháng;

đ) Trong trường hợp bên cho thuê chưa được lấy lại nhà ở theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều này, thì được lấy lại nhà ở kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng.

3. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng vẫn còn, nhưng kết thúc trước ngày 1 tháng 7 năm 2005, nếu các bên không có thoả thuận khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng; nếu bên thuê nhà được tiếp tục ở nhà thuê sau khi đã hết thời hạn hợp đồng cho đến trước ngày 1 tháng 7 năm 2005 mà phát sinh các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều này, thì thực hiện theo quy định tại các điểm đó.

4. Trong trường hợp thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng vẫn còn sau ngày 1 tháng 7 năm 2005, nếu các bên không có thoả thuận khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở kể từ ngày hết thời hạn thuê.

5. Trong trường hợp thời hạn thuê nhà ở không được xác định trong hợp đồng và các bên không có thoả thuận khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng; nếu đến trước ngày 1 tháng 7 năm 2005 mà phát sinh các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều này, thì thực hiện theo quy định tại các điểm đó.

6. Trong trường hợp bên cho thuê lấy lại nhà ở để cho thuê hoặc bán nhà đang cho thuê, thì bên thuê được ưu tiên ký hợp đồng thuê tiếp hoặc được quyền ưu tiên mua nhà đang thuê theo quy định của Bộ luật dân sự.

7. Trong thời gian bên thuê được tiếp tục ở nhà thuê, thì các bên phải thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự. Giá thuê nhà ở trong trường hợp này do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định tương ứng với từng thời kỳ.

8. Hợp đồng thuê nhà ở mà toàn bộ hoặc một phần nội dung vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật dân sự thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật dân sự.
Giải quyết tranh chấp về hợp đồng thuê nhà ở giữa cá nhân với cá nhân được hướng dẫn bởi Khoản 1 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở giữa cá nhân với cá nhân được hướng dẫn bởi Khoản 2 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Ngày 20 tháng 8 năm 1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998). Để áp dụng đúng các quy định của Nghị quyết này, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số vấn đề sau dây:
...
III. VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP CỤ THỂ
...
2. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở giữa cá nhân với cá nhân.

Khi đã xác định được quan hệ giữa các bên là quan hệ hợp đồng mượn nhà ở hoặc quan hệ hợp đồng ở nhờ nhà ở như đã được hướng dẫn tại các khoản 10 và 11 Mục I Thông tư này, thì Toà án tiến hành giải quyết theo quy định tại Điều 4 của Nghị quyết số 58/1998. Tuy nhiên, khi giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 4 của Nghị quyết này, cần chú ý một số điểm sau đây:

a) Nếu bên mượn, bên ở nhờ không có chỗ ở khác hoặc không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác, nhưng nếu lấy tổng diện tích ở của nhà ở đang mượn, đang ở nhờ (kể cả diện tích ở được làm thêm) chia cho số người trong hộ gia đình của bên mượn, bên ở nhờ mà mức bình quân trên 6m2/người, thì Toà án cho bên mượn, bên ở nhờ được tiếp tục sử dụng một phần nhà ở đủ mức bình quân bằng 6m2/người, nhưng diện tích ở không dưới 10m2; phần còn lại cho bên cho mượn, bên cho ở nhờ được lấy lại.

b) Nếu bên mượn, bên ở nhờ không có chỗ ở khác hoặc không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác, nhưng nếu lấy tổng diện tích ở của nhà ở đang mượn, đang ở nhờ (kể cả diện tích ở được làm thêm) chia cho số người trong hộ gia đình của bên mượn, bên ở nhờ mà mức bình quân bằng hoặc dưới 6m2/người thì Toà án cho bên mượn, bên ở nhờ được tiếp tục sử dụng toàn bộ nhà ở đang mượn, đang ở nhờ.

c) Nếu trong thời gian mượn, ở nhờ mà bên mượn, bên ở nhờ có đưa cho bên cho mượn, bên cho ở nhờ một khoản tiền hoặc tài sản khác liên quan đến việc mượn, việc ở nhờ nhà ở (nhưng không phải là để thanh toán cho việc thuê nhà ở, mua bán nhà ở) và nay có yêu cầu thanh toán, thì Toà án coi đó chỉ là một khoản nợ không có lãi và áp dụng hướng dẫn tại Thông tư số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản" để buộc bên cho mượn, bên cho ở nhờ trả lại khoản tiền hoặc tài sản khác đó cho bên mượn nhà ở, bên ở nhờ nhà ở.

Xem nội dung VB
Điều 4. Cho mượn, cho ở nhờ nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực, thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ được lấy lại nhà ở, nếu các bên không có thoả thuận khác, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ biết trước ít nhất là ba tháng.

2. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở theo hợp đồng vẫn còn, thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ được lấy lại nhà ở kể từ khi hết hạn hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ biết trước ít nhất là ba tháng.

3. Trong trường hợp thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà ở không được xác định trong hợp đồng, thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ được lấy lại nhà ở, nếu các bên không có thoả thuận khác, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở nhờ biết trước ít nhất là sáu tháng. Trong trường hợp bên mượn, bên ở nhờ không có chỗ ở khác hoặc không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác, thì tuỳ từng trường hợp mà được tiếp tục sử dụng một phần hoặc toàn bộ nhà ở đang mượn, đang ở nhờ cho đến ngày 1 tháng 7 năm 2005 và các bên phải ký kết hợp đồng thuê nhà ở theo quy định của Bộ luật dân sự; giá thuê nhà ở được thực hiện theo quy định tại khoản 7 Điều 3 của Nghị quyết này; nếu bên mượn, bên ở nhờ không chịu ký kết hợp đồng thì phải trả lại nhà; nếu bên cho mượn, bên cho ở nhờ không chịu ký kết hợp đồng thì bên mượn, bên ở nhờ được tiếp tục ở nhà đang mượn, đang ở nhờ cho đến ngày 1 tháng 7 năm 2005.
Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở giữa cá nhân với cá nhân được hướng dẫn bởi Khoản 2 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở giữa cá nhân với cá nhân được hướng dẫn bởi Khoản 3 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Ngày 20 tháng 8 năm 1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998). Để áp dụng đúng các quy định của Nghị quyết này, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số vấn đề sau dây:
...
III. VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP CỤ THỂ
...
3. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở giữa cá nhân với cá nhân.

Khi đã xác định được quan hệ giữa các bên là hợp đồng mua bán nhà ở như đã hướng dẫn tại khoản 12 Mục I Thông tư này, và nếu có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở chưa hoàn tất, thì Toà án tiến hành giải quyết theo quy định tại Điều 5 của Nghị quyết số 58/1998; cụ thể là:

a) Nếu hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng, thì Toà án công nhận hợp đồng, buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làn thủ tục chuyển quyền sở hữu.

b) Nếu hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng, thì giải quyết như sau:

- Nếu các bên chưa thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, nghĩa là bên bán chưa nhận tiền và chưa giao nhà, còn bên mua cũng chưa giao tiền và chưa nhận nhà, thì Toà án tuyên bố hợp đồng bị huỷ bỏ.

- Nếu bên mua đã trả đủ hoặc một phần tiền mua nhà mà bên bán chưa giao nhà hoặc bên bán đã giao toàn bộ hoặc một phần nhà mà bên mua chưa trả đủ tiền, thì Toà án buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu. Bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà có lỗi và gây thiệt hại, thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự. Nếu bên mua chưa trả đủ tiền, thì Toà án xác định rõ số tiền mà bên mua chưa trả tại thời điểm mua bán nhà ở chiếm bao nhiêu phần trăm giá trị nhà ở đó, đồng thời quyết định việc định giá nhà ở đó theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm để xác định số tiền theo số phần trăm đã xác định được của giá trị nhà ở đó buộc bên mua phải thanh toán cho bên bán và để tính án phí.

Ví dụ: Năm 1980 A bán nhà "X" cho B với giá 100.000đồng và B đã trả được cho A 60.000 đồng, nay có tranh chấp, thì trong trường hợp này số tiền B chưa trả cho A tại thời điểm mua bán nhà chiếm 40% giá trị ngôi nhà "X". Tại thời điểm xét xử sơ thẩm việc định giá cho thấy giá nhà ở đó theo giá thị trường là 100.000.000 đồng. Như vậy, số tiền mà Toà án buộc B phải thanh toán cho A là: 40% x 100.000 đồng = 40.000.000 đồng.

Ngoài ra để bảo vệ quyền lợi cho bên được thi hành án, Toà án phải quyết định việc chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo hướng dẫn tại mục III Thông tư số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản".

c) Trong trường hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu để thực hiện hợp đồng mua bán nhà ở đã được hoàn tất, nhưng bên bán chưa giao nhà hoặc bên mua chưa trả đủ tiền, thì Toà án buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà có lỗi và gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự. Nếu bên mua chưa trả đủ tiền, thì Toà án buộc bên mua phải trả cho bên bán khoản tiền còn thiếu tính theo giá trị của nhà ở đó theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm như đã hướng dẫn tại đoạn 2 điểm b khoản này.

d) Trong trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện (toàn bộ hoặc một phần), thì hợp đồng mua bán nhà ở đó được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 5 của Nghị quyết số 58/1998 và theo hướng dẫn tại các điểm a, b và c khoản này.

đ) Trong trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở mà toàn bộ hoặc một phần nội dung vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật dân sự, thì Toà án tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và giải quyết hậu quản pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật dân sự.

Xem nội dung VB
Điều 5. Mua bán nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì bên mua phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

2. Trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì giải quyết như sau:

a) Nếu hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng, thì hợp đồng được công nhận, các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu;

b) Nếu hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng, thì giải quyết như sau:

- Nếu các bên chưa thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, thì hợp đồng bị huỷ bỏ;

- Nếu bên mua đã trả đủ hoặc một phần tiền mua nhà mà bên bán chưa giao nhà hoặc bên bán đã giao toàn bộ hoặc một phần nhà mà bên mua chưa trả đủ tiền, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu. Nếu bên mua chưa trả đủ tiền, thì phải trả cho bên bán khoản tiền còn thiếu tính theo giá trị của nhà ở đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán. Bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà có lỗi và gây thiệt hại, thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự.

3. Trong trường hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu để thực hiện hợp đồng mua bán nhà ở đã được hoàn tất, nhưng bên bán chưa giao nhà hoặc bên mua chưa trả đủ tiền, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác; nếu bên mua chưa trả đủ tiền, thì phải trả cho bên bán khoản tiền còn thiếu tính theo giá trị của nhà ở đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán. Bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà có lỗi và gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự.

4. Trong trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện, thì hợp đồng mua bán nhà ở đó được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.

5. Hợp đồng mua bán nhà ở mà toàn bộ hoặc một phần nội dung vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật dân sự thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật dân sự.
Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở giữa cá nhân với cá nhân được hướng dẫn bởi Khoản 3 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Giải quyết tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở giữa cá nhân với cá nhân được hướng dẫn bởi Khoản 4 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Ngày 20 tháng 8 năm 1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998). Để áp dụng đúng các quy định của Nghị quyết này, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số vấn đề sau dây:
...
III. VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP CỤ THỂ
...
4. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở giữa cá nhân với cá nhân.

Khi đã xác định được quan hệ giữa các bên là quan hệ đổi nhà ở, thì Toà án tiến hành giải quyết theo quy định tại Điều 6 của Nghị quyết số 58/1998. Khi giải quyết loại tranh chấp này, cần chú ý một số điểm sau:

a) Toà án công nhận hợp đồng đổi nhà ở và buộc các bên thực hiện hợp đồng, kể cả việc làm thủ tục chuyển quyền sở hữu trong các trường hợp được quy định tại các điểm a, b và c Khoản 2 và khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết số 58/1998.

b) Toà án tuyên bố hợp đồng đổi nhà ở bị huỷ bỏ trong trường hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất và các bên chưa giao nhà ở cho nhau.

c) Khi công nhận hợp đồng đổi nhà ở và buộc các bên thực hiện hợp đồng, kể cả việc làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, nếu việc đổi nhà ở giữa các bên có chênh lệch về giá trị và bên có nghĩa vụ thanh toán chưa trả đủ tiền, thì Toà án buộc bên có nghĩa vụ phải trả cho bên kia khoản tiền còn thiếu theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Tuỳ từng trường hợp mà Toà án buộc bên có nghĩa vụ thanh toán phải trả cho bên kia khoản tiền được xác định như sau:

- Nếu tại thời điểm đổi nhà ở, hai bên thoả thuận bên có nhà ở có giá trị thấp phải thanh toán cho bên có nhà ở có giá trị cao hơn khoản tiền bằng giá trị chênh lệch giữa hai nhà ở theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, thì Toà án quyết định rõ trong bản án quyết định là buộc bên có nhà ở có giá trị thấp phải thanh toán cho bên có nhà ở có giá trị cao khoản tiền bằng giá trị chênh lệch giữa hai nhà ở theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm và quyết định việc chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo hướng dẫn tại Thông tư số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản".

- Nếu tại thời điểm đổi nhà ở, hai bên thoả thuận đổi nhà ở cho nhau và bên có nhà ở có giá trị thấp phải thanh toán cho bên có nhà ở có giá trị cao khoản tiền chênh lệch đã được xác định, thì Toà án áp dụng hướng dẫn tại Thông tư số 01/TTLB ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản" để tính số tiền mà bên có nghĩa vụ phải thanh toán như một khoản nợ không có lãi.

d) Trong trường hợp các bên chỉ đổi cho nhau quyền sử dụng nhà ở mà không chuyển quyền sở hữu nhà ở, thì Toà án giải quyết theo đúng quy định tại khoản 4 Điều 6 của Nghị quyết số 58/1998. Nếu khi đổi, các bên cũng có thoả thuận về khoản tiền chênh lệch, thì tuỳ trường hợp cụ thể mà Toà án áp dụng các hướng dẫn tương ứng tại điểm c khoản này đề giải quyết.

đ) Nếu hợp đồng đổi nhà ở mà toàm bộ hoặc một phần nội dung vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật Hình sự, thì Toà án tuyên bố hợp đồng đổi nhà ở vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật dân sự. Nếu phải buộc các bên thực hiện nghĩa vụ về tài sản, thì Toà án thực hiện theo đúng các hướng dẫn tại Thông tư số 01/TTLB ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản".

Xem nội dung VB
Điều 6. Đổi nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

2. Trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì giải quyết như sau:

a) Nếu các bên đã giao nhà ở cho nhau, thì các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu ;

b) Nếu một bên đã giao nhà ở mà bên kia chưa giao, thì bên chưa giao nhà ở phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng;

c) Nếu các bên mới giao một phần nhà ở cho nhau, thì mỗi bên phải giao nốt phần còn lại cho bên kia;

d) Nếu các bên đã giao nhà ở cho nhau mà có chênh lệch về giá trị và bên có nghĩa vụ thanh toán chưa trả đủ tiền, thì phải trả cho bên kia khoản tiền còn thiếu theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán. Bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà có lỗi và gây thiệt hại, thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự;

đ) Nếu các bên chưa giao nhà ở cho nhau, thì hợp đồng bị huỷ bỏ.

3. Trong trường hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu để thực hiện hợp đồng đổi nhà ở đã được hoàn tất mà các bên chưa giao nhà ở cho nhau hoặc một bên chưa giao nhà ở cho bên kia, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.

4. Trong trường hợp các bên chỉ đổi cho nhau quyền sử dụng nhà ở mà không chuyển quyền sở hữu nhà ở, nếu xảy ra tranh chấp, thì giải quyết như sau:

a) Nếu một bên đã giao nhà ở mà bên kia chưa giao, thì bên chưa giao phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà có lỗi và gây thiệt hại, thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự;

b) Nếu hợp đồng có thời hạn, thì khi thời hạn đó đã hết, các bên phải trở lại tình trạng ban đầu trong thời hạn một tháng kể từ ngày hết hạn, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác; nếu hợp đồng không xác định thời hạn, thì một trong các bên có quyền yêu cầu trở lại tình trạng ban đầu, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên kia biết trước ít nhất là ba tháng.

5. Hợp đồng đổi nhà ở mà toàn bộ hoặc một phần nội dung vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật dân sự thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật dân sự.
Giải quyết tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở giữa cá nhân với cá nhân được hướng dẫn bởi Khoản 4 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Giải quyết tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở giữa cá nhân với cá nhân được hướng dẫn bởi Khoản 5 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Ngày 20 tháng 8 năm 1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998). Để áp dụng đúng các quy định của Nghị quyết này, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số vấn đề sau dây:
...
III. VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP CỤ THỂ
...
5. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở giữa cá nhân với cá nhân.

Khi đã xác định được quan hệ giữa các bên là quan hệ tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì tuỳ từng trường hợp mà Toà án giải quyết theo quy định tại Điều 7 của Nghị quyết số 58/1998. Khi giải quyết loại tranh cháp này cần chú ý một số điểm sau đây:

a) Đối với loại hợp đồng tặng cho nhà ở không có điều kiện mà bên được tặng cho đã nhận nhà ở, nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, thì Toà án công nhận hợp đồng và cho phép bên được tặng cho nhà ở làm thủ tục chuyển quyền sở hữu; nếu bên được tặng cho chưa nhận nhà ở và cũng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở, thì Toà án tuyên bố hợp đồng tặng cho nhà ở bị huỷ bỏ.

b) Trong trường hợp hợp đồng tặng cho nhà ở có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện đầy đủ, thì tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau:

- Nếu bên được tặng cho đã nhận nhà ở nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, thì Toà án công nhận nhà ở đó thuộc quyền sở hữu của bên được tặng cho;

- Nếu bên được tặng cho chưa nhận nhà ở và chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, thì Toà án tuyên bố hợp đồng tặng cho nhà ở bị huỷ bỏ. Trong trường hợp này, nếu bên được tặng cho có yêu cầu giải quyết về các điều kiện đã xảy ra hoặc đã được thực hiện, thì Toà án giải quyết cả yêu cầu này.

- Nếu thủ tục chuyển quyền sở hữu để thực hiện hợp đồng tặng cho nhà ở đã hoàn tất mà nhà ở chưa giao cho bên được tặng cho, thì Toà án buộc bên tặng cho phải giao nhà ở đó cho bên được tặng cho trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày bên được tặng cho có yêu cầu bằng văn bản.

c) Trong trường hợp hợp đồng tặng cho nhà ở có điều kiện mà điều kiện đó chưa xảy ra hoặc chưa được thực hiện hoặc chỉ mới được thực hiện một phần, thì Toà án tuyên bố hợp đồng tặng cho nhà ở bị huỷ bỏ.

Xem nội dung VB
Điều 7. Tặng cho nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì bên được tặng cho phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

2. Trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì giải quyết như sau:

a) Nếu bên được tặng cho đã nhận nhà ở, thì nhà ở đó thuộc quyền sở hữu của bên được tặng cho và bên được tặng cho phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu;

b) Nếu bên được tặng cho chưa nhận nhà ở, thì hợp đồng tặng cho nhà ở bị huỷ bỏ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

3. Trong trường hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu để thực hiện hợp đồng tặng cho nhà ở đã hoàn tất mà nhà ở chưa được giao cho bên được tặng cho, thì bên tặng cho phải giao nhà ở đó cho bên được tặng cho trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày bên được tặng cho có yêu cầu bằng văn bản, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

4. Trong trường hợp hợp đồng tặng cho nhà ở có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện, thì hợp đồng tặng cho nhà ở đó được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.

5. Hợp đồng tặng cho nhà ở mà toàn bộ hoặc một phần nội dung vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội theo quy định của Bộ luật dân sự thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật dân sự.
Giải quyết tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở giữa cá nhân với cá nhân được hướng dẫn bởi Khoản 5 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Giải quyết tranh chấp về thừa kế nhà ở giữa cá nhân với cá nhân được hướng dẫn bởi Khoản 6 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Ngày 20 tháng 8 năm 1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998). Để áp dụng đúng các quy định của Nghị quyết này, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số vấn đề sau dây:
...
III. VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP CỤ THỂ
...
6. Giải quyết tranh chấp về thừa kế nhà ở giữa cá nhân với cá nhân.

Theo quy định tại Điều 9 của Nghị quyết số 58/1998 thì đối với trường hợp thừa kế nhà ở được mở trước ngày 1-7-1991 mà di sản thừa kế chưa được chia, nếu có yêu cầu chia, thì giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế. Khi thụ lý đơn yêu cầu chia di sản thừa kế loại này, Toà án cần chú ý đến việc tính thời hiệu theo quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế và hướng dẫn tại điểm c khoản 1 Mục III Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 10-8-1996 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng pháp luật theo Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật dân sự".

Xem nội dung VB
Điều 9. Thừa kế nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

Đối với trường hợp thừa kế nhà ở được mở trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 mà di sản thừa kế chưa được chia, nếu có yêu cầu chia, thì giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 15. 16 và 17 Chương 5 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 5:THỦ TỤC XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI NHÀ Ở DO THỪA KẾ VÀ NHÀ Ở VẮNG CHỦ DO CÁ NHÂN QUẢN LÝ, SỬ DỤNG

Điều 15. Thủ tục xác lập quyền sở hữu cho những người được thừa kế nhà ở

Những người được công nhận có quyền thừa kế quyền sở hữu nhà ở theo quy định tại Điều 9 của Nghị quyết số 58/1998 thì phải làm thủ tục xác lập quyền sở hữu.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở có chứng nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về việc người làm đơn có quyền thừa kế hợp pháp đối với nhà ở đó. Nếu có tranh chấp, thì phải có trích lục bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;

2. Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

3. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của những người thừa kế.

Điều 16. Thủ tục xác lập quyền sở hữu cho những người có quyền thừa kế nhà ở vắng chủ

Những người được công nhận có quyền thừa kế quyền sở hữu đối với nhà ở vắng chủ theo quy định tại điểm a khoản 2 và khoản 4 Điều 10 của Nghị quyết số 58/1998 phải làm thủ tục để được xác lập quyền sở hữu.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, có chứng nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về việc người làm đơn là người thừa kế hợp pháp của người có quyền sở hữu đối với nhà ở vắng chủ đó sau khi đã niêm yết công khai 07 ngày tại trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã nơi có nhà ở đó và tại nhà ở đó. Nếu có tranh chấp, thì phải có trích lục bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;

2. Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

3. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của những người thừa kế.

Đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 10 của Nghị quyết số 58/1998 thì phải có giấy uỷ quyền quản lý nhà ở vắng chủ (bản chính).

Điều 17. Thủ tục xác lập quyền sở hữu cho những người là bố, mẹ, vợ, chồng, con của chủ sở hữu nhà ở vắng chủ

Bố, mẹ, vợ, chồng, con (theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình) của chủ sở hữu nhà ở vắng chủ được công nhận có quyền sở hữu đối với nhà vắng chủ theo quy định tại điểm b khoản 2 và khoản 3 Điều 10 của Nghị quyết số 58/1998 phải làm thủ tục để được xác lập quyền sở hữu.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở;

2. Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

3. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của những người là bố, mẹ, vợ, chồng, con của chủ sở hữu nhà ở vắng chủ đó.

Đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 10 của Nghị quyết số 58/1998 thì phải có giấy uỷ quyền quản lý nhà ở đó (bản chính).

Xem nội dung VB
Điều 9. Thừa kế nhà ở giữa cá nhân với cá nhân

Đối với trường hợp thừa kế nhà ở được mở trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 mà di sản thừa kế chưa được chia, nếu có yêu cầu chia, thì giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Giải quyết tranh chấp về thừa kế nhà ở giữa cá nhân với cá nhân được hướng dẫn bởi Khoản 6 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 15. 16 và 17 Chương 5 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Giải quyết tranh chấp về sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới được hướng dẫn bởi Khoản 7 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Ngày 20 tháng 8 năm 1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998). Để áp dụng đúng các quy định của Nghị quyết này, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số vấn đề sau dây:
...
III. VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP CỤ THỂ
...
7. Giải quyết tranh chấp về sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới.

Khi giải quyết các tranh chấp hợp đồng cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ nhà ở giữa cá nhân với cá nhân mà có cả tranh chấp về việc bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ đã sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới trong khuôn viên nhà ở cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, thì Toà án giải quyết theo quy định tại Điều 11 của Nghị quyết số 58/1998. Đối với các trường hợp bên cho thuê, bên cho bên mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ phần giá trị đầu tư sửa chữa, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng mới còn lại thì việc xác định phần giá trị đầu tư còn lại này theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ. Đối với các trường hợp mà Điều 11 của Nghị quyết này quy định phải thanh toán một phần giá trị đầu tư cải tạo, nâng cấp hoặc giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, của nhà ở mới, thì tuỳ vào mức độ phản đối hoặc việc không đồng ý và khiếu kiện của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở mà Toà án quyết định một phần phải thanh toán đó.

Xem nội dung VB
Điều 11. Sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới

1. Đối với nhà ở cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ giữa cá nhân với cá nhân mà đã được bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới trong khuôn viên nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, thì việc lấy lại nhà ở đó được thực hiện theo quy định sau đây:

a) Đối với trường hợp nhà ở đã được sửa chữa, thì khi lấy lại nhà, bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư sửa chữa còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

b) Đối với trường hợp nhà ở đã được cải tạo, nâng cấp mà không có sự phản đối của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ, thì khi lấy lại nhà, bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư cải tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

Trong trường hợp đã có sự phản đối của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ, thì khi lấy lại nhà, bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán một phần giá trị đầu tư cải tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

c) Đối với trường hợp bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ nhà ở đã làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới trong khuôn viên nhà thuê, mượn, ở nhờ, nếu các bên không có thoả thuận khác, thì giải quyết như sau:

- Trong trường hợp bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ đã đồng ý bằng văn bản hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 không khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới và nếu diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới có thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ giá trị quyền sử dụng đất theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ tuy đã đồng ý bằng văn bản hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 không khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới, nhưng nếu diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới không thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp không được bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 đã có khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới, thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ một phần giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ bị phá dỡ và bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ đã xây dựng nhà ở mới thay thế, nếu việc phá dỡ có sự đồng ý bằng văn bản của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 mà bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ không khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư xây dựng còn lại của nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Nếu không được bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ đồng ý hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 đã có khiếu kiện, thì bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ chỉ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ một phần giá trị đầu tư xây dựng còn lại của nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

Trong trường hợp các bên có thoả thuận nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ, thì bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ giá trị quyền sử dụng đất theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

2. Đối với trường hợp quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân mà người đang quản lý, sử dụng đã sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới, thì giải quyết như sau:

a) Đối với trường hợp nhà ở đã được sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, thì khi lấy lại nhà người được công nhận là chủ sở hữu nhà ở đó phải thanh toán cho bên đã sửa chữa, cải tạo, nâng cấp giá trị đầu tư sửa chữa, cải tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

b) Đối với trường hợp làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới trong khuôn viên nhà vắng chủ, thì giải quyết như sau:

- Trong trường hợp diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới có thể sử dụng một cách riêng biệt với nhà vắng chủ, thì diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của người làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới và họ phải thanh toán cho người được công nhận là chủ sở hữu nhà vắng chủ giá trị quyền sử dụng đất theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới không thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà vắng chủ, thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của người được công nhận là chủ sở hữu nhà vắng chủ, nhưng chủ sở hữu nhà vắng chủ phải thanh toán cho người làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp người đang quản lý, sử dụng đã phá dỡ nhà vắng chủ và xây dựng nhà ở mới thay thế, thì người được công nhận là chủ sở hữu nhà vắng chủ được quyền sở hữu nhà ở mới đó và phải thanh toán cho người đã xây dựng nhà ở mới giá trị đầu tư xây dựng còn lại của nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp nhà vắng chủ không còn vì lý do bất khả kháng và người đang quản lý, sử dụng đã xây dựng nhà ở mới thay thế, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở mới đó cho người quản lý, sử dụng đã xây dựng nhà ở mới thay thế và họ phải thanh toán cho người được công nhận là chủ sở hữu nhà vắng chủ giá trị quyền sử dụng đất theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 7 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 7 THỦ TỤC XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI DIỆN TÍCH LÀM THÊM, NHÀ Ở XÂY DỰNG MỚI

Điều 22. Diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới

Diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới là phần diện tích nhà ở mà bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ, người quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ đã xây dựng trong khuôn viên nhà thuê, mượn, ở nhờ.

Diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới được xem là có thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, nhà vắng chủ nếu diện tích làm thêm, nhà ở mới đó được xây dựng liền kề hoặc độc lập với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, nhà vắng chủ có chiếm diện tích trong khuôn viên và không làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của bên cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ hoặc bên được công nhận có quyền sở hữu đối với nhà vắng chủ.

Điều 23. Thủ tục xác lập quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới

Người được công nhận có quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới theo quy định tại Điều 11 và Điều 16 của Nghị quyết số 58/1998 phải làm thủ tục để được xác lập quyền sở hữu.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở có chứng nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có nhà ở đó sau 07 ngày niêm yết công khai tại Uỷ ban nhân dân cấp xã và tại diện tích xây thêm, nhà ở xây dựng mới đó về việc không có khiếu kiện gì tính đến ngày 01 tháng 7 năm 1996 về diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới đó; Trong trường hợp có khiếu kiện thì phải có trích lục bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiêụ lực pháp luật về việc công nhận quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ, bên quản lý nhà ở vắng chủ và chứng nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc họ đã thi hành xong nghĩa vụ của mình theo bản án hoặc quyết định của Toà án;

2. Trích đo bản đồ thửa đất có diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới và bản vẽ sơ đồ diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

3. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của người được công nhận có quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới.

Xem nội dung VB
Điều 11. Sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới

1. Đối với nhà ở cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ giữa cá nhân với cá nhân mà đã được bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới trong khuôn viên nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, thì việc lấy lại nhà ở đó được thực hiện theo quy định sau đây:

a) Đối với trường hợp nhà ở đã được sửa chữa, thì khi lấy lại nhà, bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư sửa chữa còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

b) Đối với trường hợp nhà ở đã được cải tạo, nâng cấp mà không có sự phản đối của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ, thì khi lấy lại nhà, bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư cải tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

Trong trường hợp đã có sự phản đối của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ, thì khi lấy lại nhà, bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán một phần giá trị đầu tư cải tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

c) Đối với trường hợp bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ nhà ở đã làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới trong khuôn viên nhà thuê, mượn, ở nhờ, nếu các bên không có thoả thuận khác, thì giải quyết như sau:

- Trong trường hợp bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ đã đồng ý bằng văn bản hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 không khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới và nếu diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới có thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ giá trị quyền sử dụng đất theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ tuy đã đồng ý bằng văn bản hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 không khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới, nhưng nếu diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới không thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp không được bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 đã có khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới, thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ một phần giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ bị phá dỡ và bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ đã xây dựng nhà ở mới thay thế, nếu việc phá dỡ có sự đồng ý bằng văn bản của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 mà bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ không khiếu kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư xây dựng còn lại của nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Nếu không được bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ đồng ý hoặc đến trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 đã có khiếu kiện, thì bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ chỉ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ một phần giá trị đầu tư xây dựng còn lại của nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

Trong trường hợp các bên có thoả thuận nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ, thì bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ giá trị quyền sử dụng đất theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

2. Đối với trường hợp quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân mà người đang quản lý, sử dụng đã sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới, thì giải quyết như sau:

a) Đối với trường hợp nhà ở đã được sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, thì khi lấy lại nhà người được công nhận là chủ sở hữu nhà ở đó phải thanh toán cho bên đã sửa chữa, cải tạo, nâng cấp giá trị đầu tư sửa chữa, cải tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

b) Đối với trường hợp làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới trong khuôn viên nhà vắng chủ, thì giải quyết như sau:

- Trong trường hợp diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới có thể sử dụng một cách riêng biệt với nhà vắng chủ, thì diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của người làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới và họ phải thanh toán cho người được công nhận là chủ sở hữu nhà vắng chủ giá trị quyền sử dụng đất theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới không thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà vắng chủ, thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu của người được công nhận là chủ sở hữu nhà vắng chủ, nhưng chủ sở hữu nhà vắng chủ phải thanh toán cho người làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp người đang quản lý, sử dụng đã phá dỡ nhà vắng chủ và xây dựng nhà ở mới thay thế, thì người được công nhận là chủ sở hữu nhà vắng chủ được quyền sở hữu nhà ở mới đó và phải thanh toán cho người đã xây dựng nhà ở mới giá trị đầu tư xây dựng còn lại của nhà ở mới theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác;

- Trong trường hợp nhà vắng chủ không còn vì lý do bất khả kháng và người đang quản lý, sử dụng đã xây dựng nhà ở mới thay thế, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở mới đó cho người quản lý, sử dụng đã xây dựng nhà ở mới thay thế và họ phải thanh toán cho người được công nhận là chủ sở hữu nhà vắng chủ giá trị quyền sử dụng đất theo bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành theo khung giá do Chính phủ quy định, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Giải quyết tranh chấp về sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới được hướng dẫn bởi Khoản 7 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 7 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Giải quyết tranh chấp về giao dịch dân sự về nhà ở giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức được hướng dẫn bởi Khoản 8 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Ngày 20 tháng 8 năm 1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998). Để áp dụng đúng các quy định của Nghị quyết này, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số vấn đề sau dây:
...
III. VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP CỤ THỂ
...
8. Giải quyết tranh chấp về giao dịch dân sự về nhà ở giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức.

Khi đã xác định được quan hệ giữa các bên là giao dịch dân sự về nhà ở giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức, thì Toà án cần chú ý xác định đó là quan hệ gì (thuê nhà ở, mượn nhà ở, mua bán nhà ở, đổi nhà ở, tặng cho nhà ở hay thừa kế nhà ở) để giải quyết theo đúng các quy định tại các điều tương ứng thuộc mục III của Nghị quyết số 58/1998. Nếu trong các điều kiện cụ thể này, có quy định việc giải quyết được áp dụng theo quy định tại các điều tương ứng thuộc mục II của Nghị quyết số 58/1998, thì Toà án thực hiện theo các hướng dẫn tương ứng tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Mục III của Thông tư này.

Xem nội dung VB
Mục 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Giá cho thuê nhà ở khi chưa trả lại nhà được hướng dẫn bởi Chương 3 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 3:GIÁ CHO THUÊ NHÀ Ở KHI CHƯA TRẢ LẠI NHÀ

Điều 10. Giá cho thuê nhà ở khi chưa trả lại nhà

1. Đối với các giao dịch dân sự về thuê nhà ở giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức mà cơ quan, tổ chức đó không thụ hưởng ngân sách Nhà nước thì giá cho thuê nhà ở do các bên thỏa thuận, nếu không thoả thuận được, thì áp dụng theo bảng giá kèm theo Nghị định này (Phụ lục số 1).

2. Đối với các giao dịch dân sự về thuê nhà ở giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức mà cơ quan, tổ chức đó thụ hưởng ngân sách Nhà nước thì giá thuê nhà ở do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá mức giá theo bảng giá kèm theo Nghị định này (Phụ lục số 2).

Điều 11. Nguồn kinh phí để thực hiện việc thuê nhà

1. Trong trường hợp nhà thuê dùng để ở, thì tiền thuê nhà ở do cá nhân tự trả.

2. Trong trường hợp nhà thuê dùng làm trụ sở làm việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình công cộng thì nguồn kinh phí để thuê nhà được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị định này.

Xem nội dung VB
Mục 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Giải quyết tranh chấp về giao dịch dân sự về nhà ở giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức được hướng dẫn bởi Khoản 8 Mục III Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Giá cho thuê nhà ở khi chưa trả lại nhà được hướng dẫn bởi Chương 3 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Việc tính thời hiệu theo Khoản này được hướng dẫn bởi Mục IV Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Ngày 20 tháng 8 năm 1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998). Để áp dụng đúng các quy định của Nghị quyết này, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số vấn đề sau dây:
...
IV. VIỆC TÍNH THỜI HIỆU THEO KHOẢN 2 ĐIỀU 17 CỦA NGHỊ QUYẾT SỐ 58/1998

Đối với tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991, thì việc tính thời hiệu trong từng trường hợp cụ thể như sau:

1. Trong trường hợp chưa khởi kiện mà pháp luật có quy định về thời hiệu khởi kiện, thì thời gian từ ngày 1-7-1996 đến ngày 1-1-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.

Ví dụ: Thừa kế được mở ngày 1-5-1990. Theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Áp dụng khoản 2 Điều 17 của Nghị quyết số 58/1998, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế trong trường hợp cụ thể này đến ngày 1-11-2002, vì mười năm được tính như sau:

- Từ ngày 1-5-1990 đến ngày 1-7-1996 là sáu năm hai tháng.

- Từ ngày 1-7-1996 đến ngày 1-1-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.

- Từ 1-1-1999 đến ngày 1-11-2002 là ba năm mười tháng.

(Sáu năm hai tháng + ba năm mười tháng = mười năm).

2. Trong trường hợp đã được xét xử và bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, thì thời gian từ ngày 1-7-1996 đến ngày 1-1-1999 không tính vào thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Ví dụ: Bản án đã có hiệu lực pháp luật ngày 1-3-1995. Theo quy định tại khoản 1 Điều 73 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì "việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Áp dụng khoản 2 Điều 17 của Nghị quyết số 58/1998, thì thời hạn kháng nghị trong trường hợp cụ thể này đến ngày 1-9-2000, vì ba năm được tính như sau:

- Từ ngày 1-3-1995 đến ngày 1-7-1996 là một năm bốn tháng.

- Từ ngày 1-7-1996 đến ngày 1-1-1999 không tính vào thời hạn kháng nghị.

- Từ ngày 1-1-1999 đến ngày 1-9-2000 là một năm tám tháng.

(Một năm bốn tháng+ một năm tám tháng = ba năm).

3. Việc tính thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm được thực hiện tượng tự như hướng dẫn tại khoản 2 Mục này.

4. Đối với các vụ án đã thụ lý và đang giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm hoặc đang thụ lý để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm mà Toà án đã ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết, thì tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung.

Xem nội dung VB
Điều 17. Áp dụng các quy định của Nghị quyết để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991
...
2. Thời gian từ ngày 1 tháng 7 năm 1996 đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực không tính vào thời hiệu trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991.
Việc tính thời hiệu theo Khoản này được hướng dẫn bởi Mục IV Thông tư liên tịch 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC có hiệu lực từ ngày 10/02/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 2 và Chương 6 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 2:PHƯƠNG THỨC TRẢ NHÀ Ở GIỮA CƠ QUAN, TỔ CHỨC VỚI CÁ NHÂN

Điều 3. Các phương thức trả lại nhà ở

1. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức phải trả nhà ở cho bên cho thuê, bên cho mượn, thì tuỳ từng trường hợp các bên có thể thoả thuận việc trả nhà theo những phương thức sau đây:

ưa) Trả nhà mà cơ quan, tổ chức đang quản lý, sử dụng;

b) Trả bằng nhà khác;

c) Trả bằng tiền;

d) Nhà nước giao đất ở không phải trả tiền sử dụng đất.

2. Trong trường hợp nhà thuê, mượn đang được sử dụng cho cá nhân ở hoặc tuy đang được sử dụng làm trụ sở làm việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình công cộng nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 điều này, thì cơ quan, tổ chức phải trả nhà đó cho bên cho thuê, bên cho mượn theo quy định của Nghị quyết số 58/1998.

3. Trong trường hợp nhà thuê, mượn đang sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng hoặc nhà thuê, mượn toạ lạc tại khu vực không được quy hoạch là nhà ở, thì việc trả nhà thực hiện theo các phương thức quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 điều này.

Tuỳ từng trường hợp và điều kiện cụ thể của địa phương, việc trả nhà có thể thực hiện bằng một trong 3 phương thức quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này hoặc kết hợp đồng thời 3 phương thức nhưng tổng giá trị (tính bằng tiền) nhà đất trả cho bên cho thuê, bên cho mượn không lớn hơn giá trị nhà đất (tính bằng tiền) cho thuê, cho mượn.

Điều 4. Cơ quan, tổ chức trả nhà ở đang thuê, mượn cho bên cho thuê, bên cho mượn

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức trả nhà ở đang thuê, mượn cho bên cho thuê, bên cho mượn mà nhà cho thuê, cho mượn đã được đầu tư, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới, thì giải quyết như sau:

1. Khi nhận lại nhà, nếu bên cho thuê, bên cho mượn phải thanh toán kinh phí đầu tư, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới thì:

a) Nếu nguồn kinh phí của cá nhân, thì bên cho thuê, bên cho mượn phải thanh toán cho cá nhân đó;

b) Nếu nguồn kinh phí của cơ quan, tổ chức, thì bên cho thuê, bên cho mượn phải thanh toán cho cơ quan, tổ chức đó.

2. Khi trả lại nhà, nếu nhà thuê, mượn đang được sử dụng cho cá nhân ở và cá nhân đó được công nhận có quyền sở hữu đối với phần diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới thì họ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho mượn giá trị quyền sử dụng đất tương ứng với diện tích đất mà họ có quyền sử dụng.

Điều 5. Cơ quan, tổ chức trả bằng nhà ở khác cho bên cho thuê, bên cho mượn

1. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức trả bằng nhà khác cho bên cho thuê, bên cho mượn, thì giá trị nhà ở, đất ở trả lại không được vượt quá giá trị nhà ở, đất ở đang thuê, đang mượn.

Trong trường hợp có chênh lệch giá trị giữa nhà ở, đất ở cho thuê, cho mượn với nhà ở, đất ở trả lại, thì các bên phải thanh toán cho nhau phần chênh lệch đó bằng tiền.

2. Giá trị nhà ở, đất ở do Hội đồng định giá của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là ủy ban nhân dân cấp tỉnh) xác định căn cứ vào giá trị còn lại của nhà ở và giá trị quyền sử dụng đất.

a) Giá trị còn lại của nhà ở được xác định như sau:

- Trong trường hợp nhà thuê, nhà mượn vẫn còn, thì giá trị còn lại của nhà được xác định bằng tỷ lệ (%) chất lượng còn lại của nhà ở tại thời điểm trả nhà nhân (x) với diện tích nhà (m2) nhân (x) với giá nhà ở xây dựng mới (đ/m2) tương ứng với cấp, hạng nhà cho thuê, cho mượn.

Tỷ lệ (%) chất lượng còn lại của nhà ở được xác định theo quy định của pháp luật.

Giá nhà ở xây dựng mới được xác định theo bảng giá do ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành theo khung giá của Chính phủ;

- Trong trường hợp nhà thuê, nhà mượn đã bị phá dỡ để xây dựng nhà khác thay thế, thì giá trị còn lại của nhà ở bằng giá nhà ở xây dựng mới tương ứng với cấp, hạng nhà cho thuê, cho mượn.

b) Giá trị quyền sử dụng đất được xác định trên cơ sở bảng giá các loại đất do ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành theo khung giá của Chính phủ.

Điều 6. Cơ quan, tổ chức trả bằng tiền cho bên cho thuê, bên cho mượn

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức trả bằng tiền cho bên cho thuê, bên cho mượn thì số tiền mà cơ quan, tổ chức phải trả không được vượt quá giá trị nhà ở, đất ở đang thuê, đang mượn.

Việc xác định giá trị nhà ở, đất ở được áp dụng theo khoản 2 Điều 5 của Nghị định này.

Điều 7. Cơ quan, tổ chức trả bằng hình thức Nhà nước giao đất ở không phải trả tiền sử dụng đất cho bên cho thuê, bên cho mượn

1. Trong trường hợp Nhà nước giao đất ở cho bên cho thuê, bên cho mượn để tạo lập nhà ở mới, thì các khoản tiền phải nộp để nhận đất theo chế độ hiện hành của Nhà nước do cơ quan, tổ chức chi trả trực tiếp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

2. Trong trường hợp Nhà nước giao đất ở mà có chênh lệch giá trị giữa nhà ở, đất ở cho thuê, cho mượn với đất ở trả lại, thì các bên phải thanh toán cho nhau phần chênh lệch đó bằng tiền.

Điều 8. Nguồn kinh phí để thực hiện trả lại nhà ở

1. Nguồn kinh phí để thực hiện việc trả nhà ở theo các quy định tại các Điều 5, 6 và 7 của Nghị định này được ngân sách Nhà nước bố trí trong dự toán hàng năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt và bằng nguồn vốn của các doanh nghiệp Nhà nước theo đúng các nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước hiện hành:

a) Đối với các cơ quan, tổ chức trực thuộc Trung ương do ngân sách Trung ương chi trả;

ưb) Đối với các cơ quan, tổ chức trực thuộc địa phương do ngân sách địa phương chi trả;

c) Đối với các doanh nghiệp Nhà nước và cơ quan, tổ chức không thụ hưởng ngân sách Nhà nước do nguồn vốn của các doanh nghiệp và cơ quan, tổ chức đó chi trả.

2. Nhà nước dành một phần kinh phí để hỗ trợ nhằm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư và tạo lập quỹ nhà ở để bán, cho thuê đối với các trường hợp phải trả nhà theo quy định tại Nghị quyết số 58/1998 mà không còn chỗ ở nào khác hoặc không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác.

Điều 9. Hội đồng định giá

1. Hội đồng định giá nhà ở, đất ở do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập. Hội đồng có trách nhiệm xác định giá trị nhà đất để làm cơ sở thanh toán.

2. Thành phần Hội đồng bao gồm:

- Đại diện Sở Tài chính - Vật giá, Chủ tịch Hội đồng;

- Đại diện Sở Xây dựng, ủy viên;

- Đại diện Sở Địa chính - Nhà đất, ủy viên;

- Đại diện Sở Tư pháp, ủy viên;

- Đại diện ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi có nhà ở phải trả lại, ủy viên;

Hội đồng mời bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở và các chuyên gia của các ngành có liên quan tham dự và phát biểu ý kiến trước khi Hội đồng quyết định về giá trị của nhà ở, đất ở.
...
Chương 6:THỦ TỤC XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI NHÀ Ở DO CƠ QUAN, TỔ CHỨC THUÊ, MƯỢN CỦA CÁ NHÂN

Điều 20. Thủ tục xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở khác do cơ quan, tổ chức trả cho bên cho thuê, bên cho mượn

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức trả bằng nhà ở khác cho bên cho thuê, bên cho mượn theo quy định tại khoản 2 Điều 14 của Nghị quyết số 58/1998, thì nhà ở đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn. Cơ quan tổ chức phải làm thủ tục để xác lập quyền sở hữu nhà ở đó cho bên cho thuê, bên cho mượn.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Văn bản trả nhà ở do cơ quan, tổ chức lập, có chữ ký của 2 bên;

2. Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

3. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của bên cho thuê, cho mượn.

Điều 21. Thủ tục xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở mà cơ quan, tổ chức thuê, mượn của cá nhân

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức thuê, mượn nhà của cá nhân nhưng chủ sở hữu đã được lấy lại nhà bằng nhà khác, bằng tiền hoặc được Nhà nước giao đất ở theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 14 của Nghị quyết số 58/1998, thì việc xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở mà cơ quan, tổ chức đang thuê, mượn được thực hiện như sau:

1. Trong trường hợp kinh phí để thực hiện việc trả lại nhà ở là nguồn vốn ngân sách Nhà nước, thì nhà mà cơ quan, tổ chức đang thuê, mượn của cá nhân được chuyển thành sở hữu toàn dân. Cơ quan, tổ chức được tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đó theo đúng quy định của pháp luật;

2. Trong trường hợp kinh phí để thực hiện việc trả lại nhà ở không phải là nguồn vốn ngân sách Nhà nước, thì nhà mà cơ quan, tổ chức đang thuê, mượn của cá nhân thuộc quyền sở hữu của cơ quan, tổ chức đó. Cơ quan, tổ chức phải làm thủ tục để được xác lập quyền sở hữu.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

a) Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở;

b) Văn bản trả nhà (bản chính) theo quy định tại khoản 1 Điều 20 của Nghị định này;

c) Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận.

Trong trường hợp nhà thuê, mượn đã bị phá dỡ và cơ quan, tổ chức đã xây dựng nhà mới thay thế, thì phải kèm theo hồ sơ thiết kế kỹ thuật nhà xây dựng mới.


Xem nội dung VB
Điều 14. Phương thức trả nhà ở

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức phải trả nhà ở cho bên cho thuê, bên cho mượn, thì tuỳ từng trường hợp việc trả có thể được thực hiện theo những phương thức sau đây:

1. Trả lại nhà mà cơ quan, tổ chức đang quản lý, sử dụng;

2. Trả bằng nhà khác ;

3. Trả bằng tiền ;

4. Nhà nước giao đất ở không phải trả tiền sử dụng đất.
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 2 và Chương 6 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 2 và Chương 6 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 2:PHƯƠNG THỨC TRẢ NHÀ Ở GIỮA CƠ QUAN, TỔ CHỨC VỚI CÁ NHÂN

Điều 3. Các phương thức trả lại nhà ở

1. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức phải trả nhà ở cho bên cho thuê, bên cho mượn, thì tuỳ từng trường hợp các bên có thể thoả thuận việc trả nhà theo những phương thức sau đây:

ưa) Trả nhà mà cơ quan, tổ chức đang quản lý, sử dụng;

b) Trả bằng nhà khác;

c) Trả bằng tiền;

d) Nhà nước giao đất ở không phải trả tiền sử dụng đất.

2. Trong trường hợp nhà thuê, mượn đang được sử dụng cho cá nhân ở hoặc tuy đang được sử dụng làm trụ sở làm việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình công cộng nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 điều này, thì cơ quan, tổ chức phải trả nhà đó cho bên cho thuê, bên cho mượn theo quy định của Nghị quyết số 58/1998.

3. Trong trường hợp nhà thuê, mượn đang sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng hoặc nhà thuê, mượn toạ lạc tại khu vực không được quy hoạch là nhà ở, thì việc trả nhà thực hiện theo các phương thức quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 điều này.

Tuỳ từng trường hợp và điều kiện cụ thể của địa phương, việc trả nhà có thể thực hiện bằng một trong 3 phương thức quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này hoặc kết hợp đồng thời 3 phương thức nhưng tổng giá trị (tính bằng tiền) nhà đất trả cho bên cho thuê, bên cho mượn không lớn hơn giá trị nhà đất (tính bằng tiền) cho thuê, cho mượn.

Điều 4. Cơ quan, tổ chức trả nhà ở đang thuê, mượn cho bên cho thuê, bên cho mượn

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức trả nhà ở đang thuê, mượn cho bên cho thuê, bên cho mượn mà nhà cho thuê, cho mượn đã được đầu tư, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới, thì giải quyết như sau:

1. Khi nhận lại nhà, nếu bên cho thuê, bên cho mượn phải thanh toán kinh phí đầu tư, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới thì:

a) Nếu nguồn kinh phí của cá nhân, thì bên cho thuê, bên cho mượn phải thanh toán cho cá nhân đó;

b) Nếu nguồn kinh phí của cơ quan, tổ chức, thì bên cho thuê, bên cho mượn phải thanh toán cho cơ quan, tổ chức đó.

2. Khi trả lại nhà, nếu nhà thuê, mượn đang được sử dụng cho cá nhân ở và cá nhân đó được công nhận có quyền sở hữu đối với phần diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới thì họ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho mượn giá trị quyền sử dụng đất tương ứng với diện tích đất mà họ có quyền sử dụng.

Điều 5. Cơ quan, tổ chức trả bằng nhà ở khác cho bên cho thuê, bên cho mượn

1. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức trả bằng nhà khác cho bên cho thuê, bên cho mượn, thì giá trị nhà ở, đất ở trả lại không được vượt quá giá trị nhà ở, đất ở đang thuê, đang mượn.

Trong trường hợp có chênh lệch giá trị giữa nhà ở, đất ở cho thuê, cho mượn với nhà ở, đất ở trả lại, thì các bên phải thanh toán cho nhau phần chênh lệch đó bằng tiền.

2. Giá trị nhà ở, đất ở do Hội đồng định giá của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là ủy ban nhân dân cấp tỉnh) xác định căn cứ vào giá trị còn lại của nhà ở và giá trị quyền sử dụng đất.

a) Giá trị còn lại của nhà ở được xác định như sau:

- Trong trường hợp nhà thuê, nhà mượn vẫn còn, thì giá trị còn lại của nhà được xác định bằng tỷ lệ (%) chất lượng còn lại của nhà ở tại thời điểm trả nhà nhân (x) với diện tích nhà (m2) nhân (x) với giá nhà ở xây dựng mới (đ/m2) tương ứng với cấp, hạng nhà cho thuê, cho mượn.

Tỷ lệ (%) chất lượng còn lại của nhà ở được xác định theo quy định của pháp luật.

Giá nhà ở xây dựng mới được xác định theo bảng giá do ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành theo khung giá của Chính phủ;

- Trong trường hợp nhà thuê, nhà mượn đã bị phá dỡ để xây dựng nhà khác thay thế, thì giá trị còn lại của nhà ở bằng giá nhà ở xây dựng mới tương ứng với cấp, hạng nhà cho thuê, cho mượn.

b) Giá trị quyền sử dụng đất được xác định trên cơ sở bảng giá các loại đất do ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành theo khung giá của Chính phủ.

Điều 6. Cơ quan, tổ chức trả bằng tiền cho bên cho thuê, bên cho mượn

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức trả bằng tiền cho bên cho thuê, bên cho mượn thì số tiền mà cơ quan, tổ chức phải trả không được vượt quá giá trị nhà ở, đất ở đang thuê, đang mượn.

Việc xác định giá trị nhà ở, đất ở được áp dụng theo khoản 2 Điều 5 của Nghị định này.

Điều 7. Cơ quan, tổ chức trả bằng hình thức Nhà nước giao đất ở không phải trả tiền sử dụng đất cho bên cho thuê, bên cho mượn

1. Trong trường hợp Nhà nước giao đất ở cho bên cho thuê, bên cho mượn để tạo lập nhà ở mới, thì các khoản tiền phải nộp để nhận đất theo chế độ hiện hành của Nhà nước do cơ quan, tổ chức chi trả trực tiếp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

2. Trong trường hợp Nhà nước giao đất ở mà có chênh lệch giá trị giữa nhà ở, đất ở cho thuê, cho mượn với đất ở trả lại, thì các bên phải thanh toán cho nhau phần chênh lệch đó bằng tiền.

Điều 8. Nguồn kinh phí để thực hiện trả lại nhà ở

1. Nguồn kinh phí để thực hiện việc trả nhà ở theo các quy định tại các Điều 5, 6 và 7 của Nghị định này được ngân sách Nhà nước bố trí trong dự toán hàng năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt và bằng nguồn vốn của các doanh nghiệp Nhà nước theo đúng các nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước hiện hành:

a) Đối với các cơ quan, tổ chức trực thuộc Trung ương do ngân sách Trung ương chi trả;

ưb) Đối với các cơ quan, tổ chức trực thuộc địa phương do ngân sách địa phương chi trả;

c) Đối với các doanh nghiệp Nhà nước và cơ quan, tổ chức không thụ hưởng ngân sách Nhà nước do nguồn vốn của các doanh nghiệp và cơ quan, tổ chức đó chi trả.

2. Nhà nước dành một phần kinh phí để hỗ trợ nhằm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư và tạo lập quỹ nhà ở để bán, cho thuê đối với các trường hợp phải trả nhà theo quy định tại Nghị quyết số 58/1998 mà không còn chỗ ở nào khác hoặc không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác.

Điều 9. Hội đồng định giá

1. Hội đồng định giá nhà ở, đất ở do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập. Hội đồng có trách nhiệm xác định giá trị nhà đất để làm cơ sở thanh toán.

2. Thành phần Hội đồng bao gồm:

- Đại diện Sở Tài chính - Vật giá, Chủ tịch Hội đồng;

- Đại diện Sở Xây dựng, ủy viên;

- Đại diện Sở Địa chính - Nhà đất, ủy viên;

- Đại diện Sở Tư pháp, ủy viên;

- Đại diện ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi có nhà ở phải trả lại, ủy viên;

Hội đồng mời bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở và các chuyên gia của các ngành có liên quan tham dự và phát biểu ý kiến trước khi Hội đồng quyết định về giá trị của nhà ở, đất ở.
...
Chương 6:THỦ TỤC XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI NHÀ Ở DO CƠ QUAN, TỔ CHỨC THUÊ, MƯỢN CỦA CÁ NHÂN

Điều 20. Thủ tục xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở khác do cơ quan, tổ chức trả cho bên cho thuê, bên cho mượn

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức trả bằng nhà ở khác cho bên cho thuê, bên cho mượn theo quy định tại khoản 2 Điều 14 của Nghị quyết số 58/1998, thì nhà ở đó thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên cho mượn. Cơ quan tổ chức phải làm thủ tục để xác lập quyền sở hữu nhà ở đó cho bên cho thuê, bên cho mượn.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Văn bản trả nhà ở do cơ quan, tổ chức lập, có chữ ký của 2 bên;

2. Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

3. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của bên cho thuê, cho mượn.

Điều 21. Thủ tục xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở mà cơ quan, tổ chức thuê, mượn của cá nhân

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức thuê, mượn nhà của cá nhân nhưng chủ sở hữu đã được lấy lại nhà bằng nhà khác, bằng tiền hoặc được Nhà nước giao đất ở theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 14 của Nghị quyết số 58/1998, thì việc xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở mà cơ quan, tổ chức đang thuê, mượn được thực hiện như sau:

1. Trong trường hợp kinh phí để thực hiện việc trả lại nhà ở là nguồn vốn ngân sách Nhà nước, thì nhà mà cơ quan, tổ chức đang thuê, mượn của cá nhân được chuyển thành sở hữu toàn dân. Cơ quan, tổ chức được tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đó theo đúng quy định của pháp luật;

2. Trong trường hợp kinh phí để thực hiện việc trả lại nhà ở không phải là nguồn vốn ngân sách Nhà nước, thì nhà mà cơ quan, tổ chức đang thuê, mượn của cá nhân thuộc quyền sở hữu của cơ quan, tổ chức đó. Cơ quan, tổ chức phải làm thủ tục để được xác lập quyền sở hữu.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

a) Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở;

b) Văn bản trả nhà (bản chính) theo quy định tại khoản 1 Điều 20 của Nghị định này;

c) Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận.

Trong trường hợp nhà thuê, mượn đã bị phá dỡ và cơ quan, tổ chức đã xây dựng nhà mới thay thế, thì phải kèm theo hồ sơ thiết kế kỹ thuật nhà xây dựng mới.


Xem nội dung VB
Điều 14. Phương thức trả nhà ở

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức phải trả nhà ở cho bên cho thuê, bên cho mượn, thì tuỳ từng trường hợp việc trả có thể được thực hiện theo những phương thức sau đây:

1. Trả lại nhà mà cơ quan, tổ chức đang quản lý, sử dụng;

2. Trả bằng nhà khác ;

3. Trả bằng tiền ;

4. Nhà nước giao đất ở không phải trả tiền sử dụng đất.
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 2 và Chương 6 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 4 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 4:THỦ TỤC CHUYỂN QUYỀN SỞ HỮU TRONG CÁC TRƯỜNG HỢP MUA BÁN NHÀ Ở, TẶNG CHO NHÀ Ở, ĐỔI NHÀ Ở

Điều 12. Thủ tục chuyển quyền sở hữu theo hợp đồng mua bán nhà ở

1. Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất theo quy định tại khoản 1 Điều 5 của Nghị quyết số 58/1998, thì bên mua có quyền làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở mà không cần sự có mặt của bên bán.

Hồ sơ xin chuyển quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

ưa) Đơn xin chuyển quyền sở hữu nhà ở có xác nhận của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có nhà ở (sau đây gọi chung là ủy ban nhân dân cấp xã) về việc không có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở sau khi đã niêm yết công khai 07 ngày tại trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã và tại nhà ở đó;

b) Hợp đồng mua bán nhà (bản chính). Trong trường hợp không có hợp đồng bằng văn bản, thì bên mua phải chứng minh được là giữa 2 bên đã thực hiện việc mua bán nhà ở;

c) Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

d) Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của bên mua.

2. Trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, nhưng hợp đồng không bị huỷ bỏ hoặc không bị Toà án tuyên bố là vô hiệu theo quy định tại khoản 2 và 5 Điều 5 của Nghị quyết số 58/1998, thì các bên mua bán nhà ở phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở.

Hồ sơ xin chuyển quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

a) Hợp đồng mua bán nhà ở (bản chính). Trong trường hợp không có hợp đồng bằng văn bản thì các bên mua bán nhà ở phải chứng minh được là giữa họ đã thực hiện việc mua bán nhà ở;

b) Trích lục bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;

c) Giấy xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc bên mua đã thi hành xong phần nghĩa vụ của mình theo bản án hoặc quyết định của Toà án;

d) Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

đ) Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của các bên mua bán nhà ở.

Điều 13. Thủ tục chuyển quyền sở hữu theo hợp đồng tặng cho nhà ở

Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị quyết số 58/1998 hoặc có tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, nhưng bên được tặng cho nhà ở đã nhận nhà ở theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết số 58/1998, thì bên được tặng cho nhà ở có quyền làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở mà không cần sự có mặt của bên tặng cho.

Hồ sơ xin chuyển quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Đơn xin chuyển quyền sở hữu nhà ở. Đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị quyết số 58/1998 thì đơn phải có xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về việc không có tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở sau khi đã niêm yết công khai 07 ngày tại trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã và tại nhà ở đó.

Đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết số 58/1998 thì phải có trích lục bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;

2. Hợp đồng tặng cho nhà ở (bản chính). Trong trường hợp không có hợp đồng bằng văn bản, thì bên được tặng cho phải chứng minh được là giữa 2 bên đã thực hiện việc tặng cho nhà ở;

3. Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

4. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của bên được tặng cho nhà;

5. Trong trường hợp hợp đồng tặng cho có điều kiện, thì phải có xác nhận của các bên về việc các điều kiện đó đã xẩy ra hoặc đã được thực hiện.

Điều 14. Thủ tục chuyển quyền sở hữu theo hợp đồng đổi nhà ở

1. Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất theo quy định tại khoản 1 Điều 6 của Nghị quyết số 58/1998, thì các bên đổi nhà ở phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở.

Hồ sơ xin chuyển quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

a) Hợp đồng đổi nhà ở (bản chính). Trong trường hợp không có hợp đồng bằng văn bản, thì các bên đổi nhà ở phải chứng minh được là giữa họ đã thực hiện việc đổi nhà ở;

b) Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về việc không có tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở sau khi đã niêm yết công khai 07 ngày tại Trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã và tại 2 nhà ở đó;

c) Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

d) Xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của các bên đổi nhà ở.

2. Trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, nhưng hợp đồng không bị huỷ bỏ hoặc không bị Toà án tuyên bố là vô hiệu, thì các bên đổi nhà ở phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng và làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

Hồ sơ xin chuyển quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

ưa) Hợp đồng đổi nhà ở (bản chính). Trong trường hợp không có hợp đồng bằng văn bản, thì các bên đổi nhà ở phải chứng minh được là giữa họ đã thực hiện việc đổi nhà ở;

b) Trích lục bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;

c) Giấy xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc các bên đổi nhà ở đã thực hiện xong phần nghĩa vụ của mình theo bản án hoặc quyết định của Toà án;

d) Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

đ) Xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của các bên đổi nhà ở.

Xem nội dung VB
Điều 8. Thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở

Thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với các trường hợp quy định tại các Điều 5, 6 và 7 của Nghị quyết này được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 4 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 4 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 4:THỦ TỤC CHUYỂN QUYỀN SỞ HỮU TRONG CÁC TRƯỜNG HỢP MUA BÁN NHÀ Ở, TẶNG CHO NHÀ Ở, ĐỔI NHÀ Ở

Điều 12. Thủ tục chuyển quyền sở hữu theo hợp đồng mua bán nhà ở

1. Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất theo quy định tại khoản 1 Điều 5 của Nghị quyết số 58/1998, thì bên mua có quyền làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở mà không cần sự có mặt của bên bán.

Hồ sơ xin chuyển quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

ưa) Đơn xin chuyển quyền sở hữu nhà ở có xác nhận của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có nhà ở (sau đây gọi chung là ủy ban nhân dân cấp xã) về việc không có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở sau khi đã niêm yết công khai 07 ngày tại trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã và tại nhà ở đó;

b) Hợp đồng mua bán nhà (bản chính). Trong trường hợp không có hợp đồng bằng văn bản, thì bên mua phải chứng minh được là giữa 2 bên đã thực hiện việc mua bán nhà ở;

c) Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

d) Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của bên mua.

2. Trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, nhưng hợp đồng không bị huỷ bỏ hoặc không bị Toà án tuyên bố là vô hiệu theo quy định tại khoản 2 và 5 Điều 5 của Nghị quyết số 58/1998, thì các bên mua bán nhà ở phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở.

Hồ sơ xin chuyển quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

a) Hợp đồng mua bán nhà ở (bản chính). Trong trường hợp không có hợp đồng bằng văn bản thì các bên mua bán nhà ở phải chứng minh được là giữa họ đã thực hiện việc mua bán nhà ở;

b) Trích lục bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;

c) Giấy xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc bên mua đã thi hành xong phần nghĩa vụ của mình theo bản án hoặc quyết định của Toà án;

d) Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

đ) Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của các bên mua bán nhà ở.

Điều 13. Thủ tục chuyển quyền sở hữu theo hợp đồng tặng cho nhà ở

Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị quyết số 58/1998 hoặc có tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, nhưng bên được tặng cho nhà ở đã nhận nhà ở theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết số 58/1998, thì bên được tặng cho nhà ở có quyền làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở mà không cần sự có mặt của bên tặng cho.

Hồ sơ xin chuyển quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Đơn xin chuyển quyền sở hữu nhà ở. Đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị quyết số 58/1998 thì đơn phải có xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về việc không có tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở sau khi đã niêm yết công khai 07 ngày tại trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã và tại nhà ở đó.

Đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết số 58/1998 thì phải có trích lục bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;

2. Hợp đồng tặng cho nhà ở (bản chính). Trong trường hợp không có hợp đồng bằng văn bản, thì bên được tặng cho phải chứng minh được là giữa 2 bên đã thực hiện việc tặng cho nhà ở;

3. Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

4. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của bên được tặng cho nhà;

5. Trong trường hợp hợp đồng tặng cho có điều kiện, thì phải có xác nhận của các bên về việc các điều kiện đó đã xẩy ra hoặc đã được thực hiện.

Điều 14. Thủ tục chuyển quyền sở hữu theo hợp đồng đổi nhà ở

1. Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất theo quy định tại khoản 1 Điều 6 của Nghị quyết số 58/1998, thì các bên đổi nhà ở phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở.

Hồ sơ xin chuyển quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

a) Hợp đồng đổi nhà ở (bản chính). Trong trường hợp không có hợp đồng bằng văn bản, thì các bên đổi nhà ở phải chứng minh được là giữa họ đã thực hiện việc đổi nhà ở;

b) Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về việc không có tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở sau khi đã niêm yết công khai 07 ngày tại Trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã và tại 2 nhà ở đó;

c) Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

d) Xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của các bên đổi nhà ở.

2. Trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng đổi nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, nhưng hợp đồng không bị huỷ bỏ hoặc không bị Toà án tuyên bố là vô hiệu, thì các bên đổi nhà ở phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng và làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

Hồ sơ xin chuyển quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

ưa) Hợp đồng đổi nhà ở (bản chính). Trong trường hợp không có hợp đồng bằng văn bản, thì các bên đổi nhà ở phải chứng minh được là giữa họ đã thực hiện việc đổi nhà ở;

b) Trích lục bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;

c) Giấy xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc các bên đổi nhà ở đã thực hiện xong phần nghĩa vụ của mình theo bản án hoặc quyết định của Toà án;

d) Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

đ) Xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của các bên đổi nhà ở.

Xem nội dung VB
Điều 8. Thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở

Thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với các trường hợp quy định tại các Điều 5, 6 và 7 của Nghị quyết này được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 4 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 18, 19 Chương 5 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 5: THỦ TỤC XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI NHÀ Ở DO THỪA KẾ VÀ NHÀ Ở VẮNG CHỦ DO CÁ NHÂN QUẢN LÝ, SỬ DỤNG
...
Điều 18. Thủ tục xác lập quyền sở hữu cho người đang quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ

Người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở vắng chủ từ 30 năm trở lên được công nhận có quyền sở hữu đối với nhà ở vắng chủ đó theo quy định tại điểm c khoản 2, khoản 3 và 4 Điều 10 của Nghị quyết số 58/1998 phải làm thủ tục để được xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở vắng chủ đó.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, có xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về việc người đó đã quản lý, sử dụng nhà vắng chủ liên tục 30 năm trở lên kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết số 58/1998 có hiệu lực (ngày 01 tháng 01 năm 1999) sau khi đã niêm yết công khai 07 ngày tại trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã và tại nhà ở đó;

2. Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

3. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của những người đang quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ.

Điều 19. Nhà ở vắng chủ thuộc Nhà nước

Trong các trường hợp nhà ở vắng chủ thuộc Nhà nước theo quy định tại điểm c khoản 2, khoản 3 và 4 Điều 10 của Nghị quyết số 58/1998, thì nhà ở đó phải được giao cho cơ quan nhà đất địa phương quản lý. Người đang quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ thuộc Nhà nước phải ký hợp đồng thuê hoặc được quyền ưu tiên mua theo quy định của pháp luật.

Xem nội dung VB
Điều 10. Quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp trước khi đi vắng, chủ sở hữu nhà ở đã có uỷ quyền quản lý hợp pháp và cho đến ngày 1 tháng 7 năm 1996 (ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực) chưa hết thời hạn uỷ quyền hoặc tuy có uỷ quyền hợp pháp nhưng không xác định thời hạn uỷ quyền, thì việc thực hiện nội dung uỷ quyền theo quy định của Bộ luật dân sự; nếu chủ sở hữu nhà ở đó đã chết, thì việc uỷ quyền chấm dứt và việc thừa kế nhà ở đó được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự.

2. Trong trường hợp trước khi đi vắng, chủ sở hữu nhà ở đã có uỷ quyền quản lý hợp pháp và thời hạn uỷ quyền đã hết trước ngày 1 tháng 7 năm 1996, thì giải quyết như sau:

a) Nếu chủ sở hữu có yêu cầu lấy lại nhà trước ngày 1 tháng 7 năm 1996, thì nhà ở đó được trả lại cho chủ sở hữu; nếu chủ sở hữu đã chết, thì công nhận quyền sở hữu cho những người thừa kế;

b) Nếu chủ sở hữu không có yêu cầu lấy lại nhà trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 hoặc đã chết và trước khi chết không có yêu cầu lấy lại nhà, thì công nhận quyền sở hữu cho bố, mẹ, vợ, chồng, con của người đó đang quản lý, sử dụng nhà ở đó;

c) Nếu không có những người được quy định tại điểm a và điểm b khoản này, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

3. Trong trường hợp trước khi đi vắng, nếu chủ sở hữu nhà ở không có uỷ quyền quản lý hợp pháp thì công nhận quyền sở hữu cho bố, mẹ, vợ, chồng, con của người đó đang quản lý, sử dụng nhà ở đó; nếu không có những người nói trên, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

4. Trong trường hợp nhà ở vắng chủ vì chủ sở hữu đi hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến, thì nhà ở đó được trả lại cho chủ sở hữu. Nếu chủ sở hữu đã chết, thì nhà ở đó thuộc sở hữu của những người thừa kế. Trong trường hợp không có người thừa kế, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

5. Trong trường hợp người đang trực tiếp quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ được quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này không được công nhận là chủ sở hữu nhà ở đó, thì có quyền yêu cầu người được công nhận là chủ sở hữu phải đền bù một khoản chi phí hợp lý do đã trông nom, bảo quản nhà ở đó.
Điều này được hướng dẫn bởi Thông tư 02/1999/TT-BXD có hiệu lực từ ngày 18/5/1999
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998)
...
Bộ Xây dựng hướng dẫn việc quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân khi thực hiện Nghị quyết số 58/1998 như sau:

I. PHẠM VI ÁP DỤNG
...
II. VỀ VIỆC ỦY QUYỀN QUẢN LÝ NHÀ Ở VẮNG CHỦ
...
III. VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ, SỬ DỤNG NHÀ Ở VẮNG CHỦ
...
IV. TỔ CHỨC QUẢN LÝ NHÀ Ở VẮNG CHỦ

Xem nội dung VB
Điều 10. Quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp trước khi đi vắng, chủ sở hữu nhà ở đã có uỷ quyền quản lý hợp pháp và cho đến ngày 1 tháng 7 năm 1996 (ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực) chưa hết thời hạn uỷ quyền hoặc tuy có uỷ quyền hợp pháp nhưng không xác định thời hạn uỷ quyền, thì việc thực hiện nội dung uỷ quyền theo quy định của Bộ luật dân sự; nếu chủ sở hữu nhà ở đó đã chết, thì việc uỷ quyền chấm dứt và việc thừa kế nhà ở đó được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự.

2. Trong trường hợp trước khi đi vắng, chủ sở hữu nhà ở đã có uỷ quyền quản lý hợp pháp và thời hạn uỷ quyền đã hết trước ngày 1 tháng 7 năm 1996, thì giải quyết như sau:

a) Nếu chủ sở hữu có yêu cầu lấy lại nhà trước ngày 1 tháng 7 năm 1996, thì nhà ở đó được trả lại cho chủ sở hữu; nếu chủ sở hữu đã chết, thì công nhận quyền sở hữu cho những người thừa kế;

b) Nếu chủ sở hữu không có yêu cầu lấy lại nhà trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 hoặc đã chết và trước khi chết không có yêu cầu lấy lại nhà, thì công nhận quyền sở hữu cho bố, mẹ, vợ, chồng, con của người đó đang quản lý, sử dụng nhà ở đó;

c) Nếu không có những người được quy định tại điểm a và điểm b khoản này, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

3. Trong trường hợp trước khi đi vắng, nếu chủ sở hữu nhà ở không có uỷ quyền quản lý hợp pháp thì công nhận quyền sở hữu cho bố, mẹ, vợ, chồng, con của người đó đang quản lý, sử dụng nhà ở đó; nếu không có những người nói trên, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

4. Trong trường hợp nhà ở vắng chủ vì chủ sở hữu đi hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến, thì nhà ở đó được trả lại cho chủ sở hữu. Nếu chủ sở hữu đã chết, thì nhà ở đó thuộc sở hữu của những người thừa kế. Trong trường hợp không có người thừa kế, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

5. Trong trường hợp người đang trực tiếp quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ được quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này không được công nhận là chủ sở hữu nhà ở đó, thì có quyền yêu cầu người được công nhận là chủ sở hữu phải đền bù một khoản chi phí hợp lý do đã trông nom, bảo quản nhà ở đó.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 18, 19 Chương 5 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Thông tư 02/1999/TT-BXD có hiệu lực từ ngày 18/5/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 18, 19 Chương 5 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 5: THỦ TỤC XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI NHÀ Ở DO THỪA KẾ VÀ NHÀ Ở VẮNG CHỦ DO CÁ NHÂN QUẢN LÝ, SỬ DỤNG
...
Điều 18. Thủ tục xác lập quyền sở hữu cho người đang quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ

Người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở vắng chủ từ 30 năm trở lên được công nhận có quyền sở hữu đối với nhà ở vắng chủ đó theo quy định tại điểm c khoản 2, khoản 3 và 4 Điều 10 của Nghị quyết số 58/1998 phải làm thủ tục để được xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở vắng chủ đó.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, có xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về việc người đó đã quản lý, sử dụng nhà vắng chủ liên tục 30 năm trở lên kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết số 58/1998 có hiệu lực (ngày 01 tháng 01 năm 1999) sau khi đã niêm yết công khai 07 ngày tại trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã và tại nhà ở đó;

2. Trích lục bản đồ thửa đất có nhà ở và bản vẽ sơ đồ nhà do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

3. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của những người đang quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ.

Điều 19. Nhà ở vắng chủ thuộc Nhà nước

Trong các trường hợp nhà ở vắng chủ thuộc Nhà nước theo quy định tại điểm c khoản 2, khoản 3 và 4 Điều 10 của Nghị quyết số 58/1998, thì nhà ở đó phải được giao cho cơ quan nhà đất địa phương quản lý. Người đang quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ thuộc Nhà nước phải ký hợp đồng thuê hoặc được quyền ưu tiên mua theo quy định của pháp luật.

Xem nội dung VB
Điều 10. Quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp trước khi đi vắng, chủ sở hữu nhà ở đã có uỷ quyền quản lý hợp pháp và cho đến ngày 1 tháng 7 năm 1996 (ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực) chưa hết thời hạn uỷ quyền hoặc tuy có uỷ quyền hợp pháp nhưng không xác định thời hạn uỷ quyền, thì việc thực hiện nội dung uỷ quyền theo quy định của Bộ luật dân sự; nếu chủ sở hữu nhà ở đó đã chết, thì việc uỷ quyền chấm dứt và việc thừa kế nhà ở đó được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự.

2. Trong trường hợp trước khi đi vắng, chủ sở hữu nhà ở đã có uỷ quyền quản lý hợp pháp và thời hạn uỷ quyền đã hết trước ngày 1 tháng 7 năm 1996, thì giải quyết như sau:

a) Nếu chủ sở hữu có yêu cầu lấy lại nhà trước ngày 1 tháng 7 năm 1996, thì nhà ở đó được trả lại cho chủ sở hữu; nếu chủ sở hữu đã chết, thì công nhận quyền sở hữu cho những người thừa kế;

b) Nếu chủ sở hữu không có yêu cầu lấy lại nhà trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 hoặc đã chết và trước khi chết không có yêu cầu lấy lại nhà, thì công nhận quyền sở hữu cho bố, mẹ, vợ, chồng, con của người đó đang quản lý, sử dụng nhà ở đó;

c) Nếu không có những người được quy định tại điểm a và điểm b khoản này, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

3. Trong trường hợp trước khi đi vắng, nếu chủ sở hữu nhà ở không có uỷ quyền quản lý hợp pháp thì công nhận quyền sở hữu cho bố, mẹ, vợ, chồng, con của người đó đang quản lý, sử dụng nhà ở đó; nếu không có những người nói trên, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

4. Trong trường hợp nhà ở vắng chủ vì chủ sở hữu đi hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến, thì nhà ở đó được trả lại cho chủ sở hữu. Nếu chủ sở hữu đã chết, thì nhà ở đó thuộc sở hữu của những người thừa kế. Trong trường hợp không có người thừa kế, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

5. Trong trường hợp người đang trực tiếp quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ được quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này không được công nhận là chủ sở hữu nhà ở đó, thì có quyền yêu cầu người được công nhận là chủ sở hữu phải đền bù một khoản chi phí hợp lý do đã trông nom, bảo quản nhà ở đó.
Điều này được hướng dẫn bởi Thông tư 02/1999/TT-BXD có hiệu lực từ ngày 18/5/1999
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 58/1998)
...
Bộ Xây dựng hướng dẫn việc quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân khi thực hiện Nghị quyết số 58/1998 như sau:

I. PHẠM VI ÁP DỤNG
...
II. VỀ VIỆC ỦY QUYỀN QUẢN LÝ NHÀ Ở VẮNG CHỦ
...
III. VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ, SỬ DỤNG NHÀ Ở VẮNG CHỦ
...
IV. TỔ CHỨC QUẢN LÝ NHÀ Ở VẮNG CHỦ

Xem nội dung VB
Điều 10. Quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân

1. Trong trường hợp trước khi đi vắng, chủ sở hữu nhà ở đã có uỷ quyền quản lý hợp pháp và cho đến ngày 1 tháng 7 năm 1996 (ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực) chưa hết thời hạn uỷ quyền hoặc tuy có uỷ quyền hợp pháp nhưng không xác định thời hạn uỷ quyền, thì việc thực hiện nội dung uỷ quyền theo quy định của Bộ luật dân sự; nếu chủ sở hữu nhà ở đó đã chết, thì việc uỷ quyền chấm dứt và việc thừa kế nhà ở đó được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự.

2. Trong trường hợp trước khi đi vắng, chủ sở hữu nhà ở đã có uỷ quyền quản lý hợp pháp và thời hạn uỷ quyền đã hết trước ngày 1 tháng 7 năm 1996, thì giải quyết như sau:

a) Nếu chủ sở hữu có yêu cầu lấy lại nhà trước ngày 1 tháng 7 năm 1996, thì nhà ở đó được trả lại cho chủ sở hữu; nếu chủ sở hữu đã chết, thì công nhận quyền sở hữu cho những người thừa kế;

b) Nếu chủ sở hữu không có yêu cầu lấy lại nhà trước ngày 1 tháng 7 năm 1996 hoặc đã chết và trước khi chết không có yêu cầu lấy lại nhà, thì công nhận quyền sở hữu cho bố, mẹ, vợ, chồng, con của người đó đang quản lý, sử dụng nhà ở đó;

c) Nếu không có những người được quy định tại điểm a và điểm b khoản này, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

3. Trong trường hợp trước khi đi vắng, nếu chủ sở hữu nhà ở không có uỷ quyền quản lý hợp pháp thì công nhận quyền sở hữu cho bố, mẹ, vợ, chồng, con của người đó đang quản lý, sử dụng nhà ở đó; nếu không có những người nói trên, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

4. Trong trường hợp nhà ở vắng chủ vì chủ sở hữu đi hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến, thì nhà ở đó được trả lại cho chủ sở hữu. Nếu chủ sở hữu đã chết, thì nhà ở đó thuộc sở hữu của những người thừa kế. Trong trường hợp không có người thừa kế, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực cũng không có người đang quản lý, sử dụng nói trên, thì nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lý, sử dụng được thuê hoặc được quyền ưu tiên mua.

5. Trong trường hợp người đang trực tiếp quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ được quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này không được công nhận là chủ sở hữu nhà ở đó, thì có quyền yêu cầu người được công nhận là chủ sở hữu phải đền bù một khoản chi phí hợp lý do đã trông nom, bảo quản nhà ở đó.
Điều này được hướng dẫn bởi Điều 18, 19 Chương 5 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Thông tư 02/1999/TT-BXD có hiệu lực từ ngày 18/5/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 7 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 7 THỦ TỤC XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI DIỆN TÍCH LÀM THÊM, NHÀ Ở XÂY DỰNG MỚI

Điều 22. Diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới

Diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới là phần diện tích nhà ở mà bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ, người quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ đã xây dựng trong khuôn viên nhà thuê, mượn, ở nhờ.

Diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới được xem là có thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, nhà vắng chủ nếu diện tích làm thêm, nhà ở mới đó được xây dựng liền kề hoặc độc lập với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, nhà vắng chủ có chiếm diện tích trong khuôn viên và không làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của bên cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ hoặc bên được công nhận có quyền sở hữu đối với nhà vắng chủ.

Điều 23. Thủ tục xác lập quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới

Người được công nhận có quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới theo quy định tại Điều 11 và Điều 16 của Nghị quyết số 58/1998 phải làm thủ tục để được xác lập quyền sở hữu.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở có chứng nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có nhà ở đó sau 07 ngày niêm yết công khai tại Uỷ ban nhân dân cấp xã và tại diện tích xây thêm, nhà ở xây dựng mới đó về việc không có khiếu kiện gì tính đến ngày 01 tháng 7 năm 1996 về diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới đó; Trong trường hợp có khiếu kiện thì phải có trích lục bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiêụ lực pháp luật về việc công nhận quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ, bên quản lý nhà ở vắng chủ và chứng nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc họ đã thi hành xong nghĩa vụ của mình theo bản án hoặc quyết định của Toà án;

2. Trích đo bản đồ thửa đất có diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới và bản vẽ sơ đồ diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

3. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của người được công nhận có quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới.

Xem nội dung VB
Điều 16. Sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới

Việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới được giải quyết như sau:

1. Trong trường hợp nhà đó đang được sử dụng để ở, thì việc giải quyết được áp dụng theo quy định tại Điều 11 của Nghị quyết này;

2. Trong trường hợp nhà đó đang được sử dụng để làm cơ sở sản xuất, kinh doanh, trụ sở làm việc, công trình công cộng, thì việc giải quyết do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được, thì việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp được giải quyết theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 11 của Nghị quyết này, còn diện tích làm thêm, nhà ở mới được công nhận quyền sở hữu cho bên cho thuê, cho mượn nhưng họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, nhà ở mới đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán.
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 7 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 7 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 7 THỦ TỤC XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI DIỆN TÍCH LÀM THÊM, NHÀ Ở XÂY DỰNG MỚI

Điều 22. Diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới

Diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới là phần diện tích nhà ở mà bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ, người quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ đã xây dựng trong khuôn viên nhà thuê, mượn, ở nhờ.

Diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới được xem là có thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, nhà vắng chủ nếu diện tích làm thêm, nhà ở mới đó được xây dựng liền kề hoặc độc lập với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, nhà vắng chủ có chiếm diện tích trong khuôn viên và không làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của bên cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ hoặc bên được công nhận có quyền sở hữu đối với nhà vắng chủ.

Điều 23. Thủ tục xác lập quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới

Người được công nhận có quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới theo quy định tại Điều 11 và Điều 16 của Nghị quyết số 58/1998 phải làm thủ tục để được xác lập quyền sở hữu.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở có chứng nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có nhà ở đó sau 07 ngày niêm yết công khai tại Uỷ ban nhân dân cấp xã và tại diện tích xây thêm, nhà ở xây dựng mới đó về việc không có khiếu kiện gì tính đến ngày 01 tháng 7 năm 1996 về diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới đó; Trong trường hợp có khiếu kiện thì phải có trích lục bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiêụ lực pháp luật về việc công nhận quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ, bên quản lý nhà ở vắng chủ và chứng nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc họ đã thi hành xong nghĩa vụ của mình theo bản án hoặc quyết định của Toà án;

2. Trích đo bản đồ thửa đất có diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới và bản vẽ sơ đồ diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

3. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của người được công nhận có quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới.

Xem nội dung VB
Điều 16. Sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới

Việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới được giải quyết như sau:

1. Trong trường hợp nhà đó đang được sử dụng để ở, thì việc giải quyết được áp dụng theo quy định tại Điều 11 của Nghị quyết này;

2. Trong trường hợp nhà đó đang được sử dụng để làm cơ sở sản xuất, kinh doanh, trụ sở làm việc, công trình công cộng, thì việc giải quyết do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được, thì việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp được giải quyết theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 11 của Nghị quyết này, còn diện tích làm thêm, nhà ở mới được công nhận quyền sở hữu cho bên cho thuê, cho mượn nhưng họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, nhà ở mới đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán.
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 7 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 7 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài chính,
...
Chương 7 THỦ TỤC XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU ĐỐI VỚI DIỆN TÍCH LÀM THÊM, NHÀ Ở XÂY DỰNG MỚI

Điều 22. Diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới

Diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới là phần diện tích nhà ở mà bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ, người quản lý, sử dụng nhà ở vắng chủ đã xây dựng trong khuôn viên nhà thuê, mượn, ở nhờ.

Diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới được xem là có thể sử dụng để ở một cách riêng biệt với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, nhà vắng chủ nếu diện tích làm thêm, nhà ở mới đó được xây dựng liền kề hoặc độc lập với nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, nhà vắng chủ có chiếm diện tích trong khuôn viên và không làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của bên cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ hoặc bên được công nhận có quyền sở hữu đối với nhà vắng chủ.

Điều 23. Thủ tục xác lập quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới

Người được công nhận có quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới theo quy định tại Điều 11 và Điều 16 của Nghị quyết số 58/1998 phải làm thủ tục để được xác lập quyền sở hữu.

Hồ sơ xin xác lập quyền sở hữu nhà ở bao gồm:

1. Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở có chứng nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có nhà ở đó sau 07 ngày niêm yết công khai tại Uỷ ban nhân dân cấp xã và tại diện tích xây thêm, nhà ở xây dựng mới đó về việc không có khiếu kiện gì tính đến ngày 01 tháng 7 năm 1996 về diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới đó; Trong trường hợp có khiếu kiện thì phải có trích lục bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiêụ lực pháp luật về việc công nhận quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ, bên quản lý nhà ở vắng chủ và chứng nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc họ đã thi hành xong nghĩa vụ của mình theo bản án hoặc quyết định của Toà án;

2. Trích đo bản đồ thửa đất có diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới và bản vẽ sơ đồ diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới do cơ quan có tư cách pháp nhân xác nhận;

3. Xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã về hộ khẩu thường trú của người được công nhận có quyền sở hữu đối với diện tích làm thêm, nhà ở xây dựng mới.

Xem nội dung VB
Điều 16. Sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới

Việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới được giải quyết như sau:

1. Trong trường hợp nhà đó đang được sử dụng để ở, thì việc giải quyết được áp dụng theo quy định tại Điều 11 của Nghị quyết này;

2. Trong trường hợp nhà đó đang được sử dụng để làm cơ sở sản xuất, kinh doanh, trụ sở làm việc, công trình công cộng, thì việc giải quyết do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được, thì việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp được giải quyết theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 11 của Nghị quyết này, còn diện tích làm thêm, nhà ở mới được công nhận quyền sở hữu cho bên cho thuê, cho mượn nhưng họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn giá trị đầu tư xây dựng còn lại của phần diện tích làm thêm, nhà ở mới đó theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán.
Điều này được hướng dẫn bởi Chương 7 Nghị định 25/1999/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 04/5/1999