Nghị quyết số 55-CP về công tác lương thực trong tình hình mới do Hội đồng Chính phủ ban hành

Số hiệu 55-CP
Ngày ban hành 03/03/1978
Ngày có hiệu lực 18/03/1978
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Hội đồng Chính phủ
Người ký Phạm Hùng
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 55-CP

Hà Nội, ngày 03 tháng 03 năm 1978 

 

 

VỀ CÔNG TÁC LƯƠNG THỰC TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Lương thực là nhu cầu cơ bản nhất của đời sống nhân dân và là vật tư chiến lược rất quan trọng của Nhà nước ta.

Ở miền Bắc, trong những năm có chiến tranh, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách và biện pháp tích cực giữ vững và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Các ngành và các cấp đã có những cố gắng lớn góp phần giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, vừa bảo đảm chiến đấu thắng lợi, vừa bảo đảm đời sống nhân dân.

Từ sau khi được hoàn toàn giải phóng, dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của trung ương Đảng và Chính phủ, nông dân miền Nam đã có những biến đổi quan trọng. Các ngành, các cấp đã và đang khôi phục và phát triển nông nghiệp, đồng thời đẩy mạnh công tác huy động lương thực. Nhờ đó, Nhà nước đã nắm được một phần quan trọng lương thực hàng hóa, đáp ứng được nhu cầu cấp bách về đời sống của bộ đội, cán bộ, công nhân viên Nhà nước, nhân dân phi nông nghiệp các thành phố, thị xã lớn, khu công nghiệp, vùng cá, muối và cây công nghiệp tập trung và phần lớn các nhu cầu của nền kinh tế quốc dân.

Tuy nhiên, nhìn chung nền nông nghiệp  nước ta chưa đảm bảo được nhu cầu về lương thực, thực phẩm của nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản xuất khẩu. Công tác lương thực của chúng ta còn nhiều khó khăn, nhược điểm và thiếu sót. Khuyết điểm lớn nhất, như nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ, là chúng ta còn xem nhẹ việc sản xuất, chế biến và tiêu thụ các loại hoa màu trong cơ cấu lương thực chung của xã hội.

Để giải quyết vấn đề lương thực trong tình hình mới, nghị quyết Đại quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, các nghị quyết lần thứ hai và lần thứ ba của Ban chấp hành trung ương Đảng đã khẳng định là phải tập trung cao độ lực lượng của cả nuớc, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp, giải quyết cho được vấn đề lương thực, thực phẩm đến năm 1980, phải đạt và vược chỉ tiêu 21 triệu tấn lương thực. Phấn đấu một lao động làm từ 1 đến 2 hecta gieo trồng; Tiến tới đạt bình quân 3 tấn thóc và từ 3 đến 4 con lợn/hecta gieo trồng. Phải tăng nhanh điện tích, năng suất và sản lượng màu ở tất cả các vùng, tổ chức tốt việc chế biến màu, đưa màu vào cơ cấu lương thực chính của người, tăng nguồn thức ăn cho chăn nuôi.

Dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương Đảng, sự chỉ đạo của Chính phủ, của các ngành ở Trung ương và dưới sự điều hòa, phối hợp, chỉ đạo trực tiếp của cấp tỉnh, thành, cấp huyện phải là địa bàn cân đối đất đai và lao động, giải quyết vấn đề lương thực trên cơ sở cân đối các mặt sản xuất, huy động, phân phối và tiêu dùng. Ngoài nhiệm vụ bảo đảm lương thực, thực phẩm cho đời sống nhân dân trong huyện, huyện phải đóng góp ngày càng nhiều lương thực, thực phẩm cho Trung ương, theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước hàng năm.

PHƯƠNG HƯỚNG NHIÊM VỤ CÔNG TÁC LƯƠNG THỰC TRONG TÌNH HÌNH MỚI LÀ:

Trên cơ sở phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước về sản xuất lương thực, tổ chức tốt việc huy động tuyệt đại bộ phận lương thực hàng hóa vào tay Nhà nước theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, theo đúng chính sách; phân phối hợp lý và tiết kiệm cho các đối tượng thuộc diện được Nhà nước cung cấp lương thực và cho các nhu cầu khác của nền kinh tế quốc dân theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, đúng chính sách, chế độ, thực hiện triệt để tiết kiệm, chống lãng phí tham ô trên tất cả các khâu (sản xuất, thu hoạch, vận chuyển, nhập kho, phân phối và tiêu dùng…); kiên quyết chống đầu cơ buôn lậu lương thực; thực hiện từng bước xóa bỏ thị trường không có tổ chức về lương thực, Nhà nước thống nhất quản lý lương thực trong phạm vi cả nước.

Dưới đây là những nhiệm vụ, chính sách và biện pháp cụ thể về công tác lương thực.

I. PHẢI NẮM BẰNG ĐƯỢC TUYỆT ĐẠI BỘ PHẬN LƯƠNG THỰC HÀNG HÓA VÀO TAY NHÀ NƯỚC

Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa để đảm bảo đưa việc lưu thông phân phối lương thực vào kế hoạch và tổ chức, phục vụ tốt cho sản xuất và ổn định đời sống của nhân dân, tạo điều kiện xoá bỏ thị trường không có tổ chức, xây dựng và quản lý tốt thị trường xã hội chủ nghĩa về lương thực.

Nhà nước nắm lương thực hàng hóa bằng hai hình thức giao nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp, và mua lương thực theo kế hoạch hàng năm, thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế hai chiều giữa Nhà nước với các hợp tác xã nông nghiệp và nông dân.

a) Nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp bằng hiện vật.

Hợp tác xã nông nghiệp và nông dân có nghĩa vụ nộp đầy đủ thuế nông nghiệp bằng hiện vật theo chính sách thuế nông nghiệp hiện hành ở cả hai miền.

Bộ Tài chính và Ủy ban nhân dân các cấp cần hết sức coi trọng việc thu thuế nông nghiệp bằng lương thực, đúng chính sách.

b) Mua lương thực theo kế hoạch hàng năm.

Nhà nước giao kế hoạch mua hàng năm cho các hợp tác xã nông nghiệp và hộ nông dân.

Ở các tình miền Bắc:

 Mức kế hoạch thu mua nhà nước giao là 90% số lương thực hàng hóa của hợp tác xã và nông dân.

Căn cứ vào kế hoạch sản lượng trên diện tích sản xuất lương thực hàng năm (Không tính phần diện tích dành cho hợp tác xã để phát triển chăn nuôi và diện tích dành cho kinh tế phụ gia đình xã viên), sau khi trừ phần hao hụt (tỷ lệ hao hụt từ 5% đến 7% sản lượng), phần lương thực để lại cho hợp tác xã làm giống, để ăn, để quỹ xã hội của hợp tác xã, phần nộp thuế nông nghiệp và trả nợ (nếu có) cho Nhà nước, số lương thực còn lại là lương thực hàng hóa.

Các khoản lương thực để lại cho hợp tác xã được quy định như sau:

Thóc giống: 100 kilôgam/hécta cho vụ chiêm xuân; 80 kilôgam/hecta cho vụ mùa và 20 kilôgam/hécta dự phòng cho mỗi vụ do huyện quản lý; sau mỗi vụ không dùng hết, sẽ bán cho Nhà nước theo giá thưởng vượt kế hoạch.

Quỹ xã hội: Tính 1% trong tổng sản lượng lương thực của hợp tác xã nông nghiệp như hiện nay.

Mức ăn bình quân người/tháng:

Mức ăn của các xã viên hợp tác xã nông nghiệp cao hay thấp phải căn cứ vào khả năng và kế hoạch sản xuất lương thực cả năm và từng vụ của các hợp tác xã ở từng vùng mà định cho sát. Tình thần chung là phải tính toán làm sao vừa bảo đảm hợp tác xã nộp đủ thuế nông nghiệp theo chính sách và bán lương thực cho Nhà nước theo kế hoạch, vừa đảm bảo nông dân xã viên có mức ăn hợp lý. Trong tình hình lương thực cả nước hiện nay đang có khó khăn, ở những nơi sản xuất khá, được mùa cũng không nên để mức ăn cao quá,còn những nơi khác, sản xuất kém hơn hoặc sản xuất bị thất bát, thu nhập bình quân đầu người về lương thực thấp, thì mức ăn phải để thấp hơn. Theo hướng đó, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố cần bàn với các huyện căn cứ vào điều kiện sản xuất và nhu cầu ở từng vùng để hướng dẫn mức ăn của nông dân xã viên cho sát.

Ở các tỉnh miền Nam:

[...]