HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 52-HĐBT
|
Hà Nội, ngày 23
tháng 2 năm 1985
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 52- HĐBT NGÀY 23 THÁNG 2 NĂM 1985
VỀ CẢI TIẾN QUẢN LÝ CÁC LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH.
Để thực hiện Nghị quyết Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá V) và Chỉ thị số 50-CT/TƯ của
Ban Bí thư Hội đồng Bộ trưởng quyết định một số vấn đề cải tiến quản lý lâm trường
quốc doanh.
I. VỀ SẮP XẾP
VÀ TỔ CHỨC LẠI SẢN XUẤT
Cần tiến hành tổ chức và sắp xếp
lại sản xuất trong các lâm trường quốc doanh theo phương hướng cụ thể sau đây:
1. Quản lý, bảo vệ tốt tài
nguyên rừng và đất đai được giao nhằm nhanh chóng xây dựng vốn rừng theo đúng
quy hoạch và thiết kế kinh doanh đã được duyệt.
Nâng cao trình độ sản xuất gỗ,
lâm sản, đặc sản rừng. Đẩy mạnh công nghiệp chế biến để tận dụng gỗ nhỏ, cành
ngọn và sử dụng có hiệu quả cao các nông, lâm sản khác sản xuất trên đất rừng
kinh doanh.
Sản xuất các lâm trường quốc
doanh phải đi vào sản xuất chuyên canh, thâm canh để có năng suất cao. Đồng thời
thực hiện tốt phương thức nông - lâm kết hợp, lợi dụng tổng hợp tài nguyên rừng,
vừa nâng cao hiệu quả kinh tế đất rừng, vừa thực hiện phương châm lấy ngắn nuôi
dài, thúc đẩy kinh tế lâm nghiệp phát triển.
- Tăng cường cơ sở vật chất kỹ
thuật để đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động và nâng
cao hiệu quả kinh tế.
- Phát huy vai trò nòng cốt
trong sản xuất kinh doanh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và quản lý. Cùng
với việc sắp xếp lại lâm trường, cần hết sức chú trọng thực hiện việc giao đất,
giao rừng cho các hợp tác xã và nông dân sản xuất kinh doanh, không để đất trống.
Các lâm trường và liên hiệp lâm - nông - công nghiệp có trách nhiệm tổ chức tố
việc hợp tác, liên doanh, liên kết kinh tế với các hợp tác xã và gia đình nông
dân trên địa bàn và các đơn vị kinh tế khác để phát triển sản xuất, kinh doanh
có hiệu quả kinh tế cao.
2. Căn cứ vào quy hoạch phân
vùng cụ thể ở các địa phương và huyện làm địa bàn chính để sắp xếp lại hệ thống
tổ chức sản xuất kinh doanh, tổ chức lâm trường quốc doanh và tiến hành việc
giao đất, giao rừng cho hợp tác xã và nông dân quản lý, kinh doanh. Tuỳ theo điều
kiện địa lý, loại rừng, luân kỳ kinh doanh và trình độ quản lý của cán bộ mà
xác định quy mô của lâm trường cho thích hợp, nhưng cần bố trí mỗi lâm trường
quốc doanh gọn trong địa bàn một huyện.
Bộ Lâm nghiệp, Uỷ ban Kế hoạch
Nhà nước, Uỷ ban nhân dân các tỉnh xúc tiến việc lập và xét duyệt các luận chứng
kinh tế kỹ thuật các lâm trường để có căn cứ đầu tư và tổ chức lại sản xuất có
hiệu quả. Từ nay, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chỉ duyệt dự án đầu tư và luận chứng
kinh tế kỹ thuật của các liên hiệp lâm - nông - công nghiệp và uỷ nhiệm cho Bộ
trưởng Bộ Lâm nghiệp, chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh xét duyệt luận chứng
kinh tế kỹ thuật cho các lâm trường quốc doanh trực thuộc, theo các chế độ quản
lý xây dựng cơ bản hiện hành.
3. Căn cứ vào quy hoạch vùng và
hiệu quả sản xuất cần rà xét và sắp xếp lại các lâm trường quốc doanh hiện có,
xác định rõ những lâm trường cần tập trung vốn đầu tư để đẩy mạnh sản xuất, những
lâm trường đang có nhiều khó khăn cần chuyển hướng sản xuất, kinh doanh và kiện
toàn.
Trước mắt, cần tập trung vốn đầu
tư để nâng cao năng lực sản xuất ở các lâm trường quốc doanh trong các vùng lâm
nghiệp quan trọng như vùng cung ứng gỗ mỏ Đông Bắc, vùng cung ứng nguyên liệu
cho các nhà máy giấy quan trọng, vùng gỗ lớn khu 4 cũ và vùng Tây nguyên, vùng
kinh doanh các loại đặc sản xuất khẩu, rừng giống quốc gia và các lâm trường thực
nghiệm về khoa học kỹ thuật.
4. Cần chấn chỉnh tổ chức sản xuất
trong nội bộ các lâm trường quốc doanh theo hướng:
- Các tổ, đội sản xuất lân sinh
bố trí gắn với tiểu khu rừng để vừa làm nhiệm vụ sản xuất, vừa bảo vệ được rừng.
- Các đơn vị sản xuất chuyên môn
hoá theo ngành nghề, theo công đoạn sản xuất như khai thác, vận xuất, chế biến,
xây dựng cơ bản, sửa chữa cơ khí...
5. Ở những khu vực có rừng tập
trung với quy mô lớn, có mục tiêu kinh tế thống nhất và có nhiều quan hệ chặt
chẽ về kinh tế - kỹ thuật với công nghiệp và nông nghiệp có thể tổ chức hình thức
liên hiệp lâm - nông- công nghiệp. Liên hiệp lâm - nông - công nghiệp có thể
bao gồm một hoặc một số lâm trường, xí nghiệp có quan hệ chặt chẽ về kinh tế, kỹ
thuật trong cùng một khu kinh tế lâm nghiệp. Song cần tiến hành phân công sản
xuất chuyên môn hoá, phân cấp quản lý đúng đắn, tổ chức tốt sự hợp tác giữa các
xí nghiệp, lâm trường trong liên hiệp.
Bộ Lâm nghiệp cần chú trọng kiện
toàn các liên hiệp lâm - nông - công nghiệp hiện có. Chuẩn bị đề án thành lập
những liên hiệp nông - lâm - công nghiệp mới ở một số vùng kinh tế lâm nghiệp lớn
và điều lệ tổ chức quản lý của liên hiệp trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định.
6. Phân công, phân cấp quản lý
lâm trường quốc doanh và liên hiệp lâm - nông - công trường.
Trung ương trực tiếp quản lý các
lâm trường quốc doanh và liên hiệp lâm - nông - công nghiệp ở những vùng rừng
có tầm quan trọng lớn về cung cấp lâm sản, sản phẩm sản xuất có nhiệm vụ cung ứng
cho các vùng khác, cho các nhu cầu trọng điểm của cả nước, đòi hỏi vốn đầu tư lớn,
trình độ kỹ thuật và yêu cầu quản lý phức tạp, các cơ sở sản xuất giống quốc
gia, các khu rừng có giá trị về nghiên cứu khoa học, bảo vệ thiên nhiên. Trước
mắt, Bộ Lâm nghiệp trực tiếp quản lý các đơn vị sau đây:
- Các liên hiệp lâm - nông -
công nghiệp Bắc Yên (Hà Tuyên), Sông Hiếu (Nghệ Tĩnh), Long Đại (Bình Trị
Thiên), Kon Hà Nừng (Gia Lai - Kon Tum), Easúp và Gia Nghĩa (Đắc Lắc).
- Lâm trường quốc doanh La Ngà
(Đồng Nai) và Hương Sơn (Nghệ Tĩnh).
- Các lâm trường giống quốc gia,
lâm trường gỗ mỏ và các vườn rừng quốc gia.
- Các lâm trường quốc doanh và
liên hiệp lâm - nông - công nghiệp khác giao cho địa phương quản lý, trong đó,
cấp tỉnh trực tiếp quản lý các lâm trường quốc doanh có vị trí kinh tế lớn, các
liên hiệp lâm - nông - công nghiệp. Cấp huyện quản lý các lâm trường quốc doanh
có quy mô nhỏ, có quan hệ chạt chẽ với phong trào trồng cây, gây rừng và đời sống
của nhân dân trong huyện, trình độ kỹ thuật và yêu cầu quản lý tương đối đơn giản.
II. VỀ CẢI TIẾN
CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH
A. VỀ KẾ HOẠCH
HOÁ.
1. Các lâm trường quốc doanh phải
lập kế hoạch sản xuất lâm nghiệp theo hướng kinh doanh toàn diện, lợi dụng tổng
hợp rừng và đất đai được giao để sản xuất các loại lâm sản, đặc sản rừng, nông
sản, thuỷ sản, nhất là các mặt hàng có giá trị xuất khẩu. Uỷ ban Kế hoạch Nhà
nước và Bộ Lâm nghiệp cần xác định rõ danh mục các loại lâm sản, đặc sản, nông
sản trong hệ thống chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước và những loại sản phẩm cần khuyến
khích công nhân lâm trường và nông dân phát triển.
2. Kế hoạch phát triển của các
lâm trường quốc doanh là một kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính thống nhất
(bao gồm các bộ phận kế hoạch kinh tế - xã hội); trong đó, phải lấy kế hoạch
xây dựng vốn rừng, khai thác, sử dụng rừng có hiệu quả kinh tế cao làm trung
tâm. Các lâm trường quốc doanh phải căn cứ vào các luận chứng kinh tế kỹ thuật
(hoặc quy hoạch lâm trường) phương án thiết kế kinh doanh rừng được duyệt và
nhu cầu của nền kinh tế quốc dân để chủ động lập và trình duyệt kế hoạch trong
từng thời kỳ trên cơ sở khai thác bốn nguồn khả năng và những quy định về cải
tiến công tác kế hoạch hoá đối với các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh đã ban
hành.
3. Kế hoạch của các lâm trường
quốc doanh phải được cân đối về hiện vật và giá trị; thể hiện quan hệ hợp lý giữa
sản xuất lâm nghiệp và thực hiện kinh doanh toàn diện, lợi dụng tổng hợp tài
nguyên rừng.
Nhà nước cân đối những vật tư chủ
yếu cho các lâm trường sản xuất, những sản phẩm lâm, nông nghiệp trong hệ thống
chỉ tiêu pháp lệnh. Trong trường hợp Nhà nước không cân đối đủ vật tư để sản xuất
các sản phẩm theo chỉ tiêu pháp lệnh thì các lâm trường lập kế hoạch trình lên
cấp quản lý trực tiếp (Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp)
có thể cho phép sử dụng một phần sản phẩm trao đổi lấy vật tư vổ sung để bảo đảm
sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh đã giao.
4. Các lâm trường quốc doanh phải
coi trọng xây dựng các kế hoạch dài hạn 5 năm, 10 năm, theo luân kỳ khai thác
hoặc chu kỳ kinh doanh. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch hàng năm cho phù hợp.
Các kế hoạch dài hạn cũng như hàng năm của các lâm trường quốc doanh phải đảm bảo
yêu cầu về khối lượng sản phẩm ổn định, liên tục của kế hoạch Nhà nước.
5. Hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh của
các lâm trường quốc doanh gồm có:
- Giá trị sản lượng hàng hoá thực
hiện (trong đó có phần để xuất khẩu). Giá trị những công việc lâm sinh đã hoàn
thành.
- Sản phẩm lâm, nông sản phải
giao nộp (có phần để xuất khẩu). Diện tích rừng trồng đã khép tán và diện tích
rừng đã điều chế, tu bổ đúng tiêu chuẩn chất lượng quy định.
- Mức giảm giá thành. Cụ thể là
mức giảm giá thành so với năm trước đối với những sản phẩm so sánh được, mức giảm
giá thành so với giá thành kế hoạch đối với những sản phẩm mới; tổng mức giảm
giá thành.
- Lợi nhuận và các khoản phải nộp
ngân sách.
- Những vật tư chủ yếu, lương thực
do Nhà nước cung ứng.
Trong trường hợp năng lực vốn rừng
cho phép, các lâm trường quốc doanh có thể khai thác vượt mức chỉ tiêu pháp lệnh
tối đa 10% để cung ứng thêm cho nhu cầu về lâm sản của địa phương có rừng,
nhưng phải được phép của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh và Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp
chuẩn y. Địa phương được cung ứng lâm sản chịu trách nhiệm cân đối vật tư khai
thác sản phẩm này.
B. TĂNG CƯỜNG
CÔNG TÁC HẠCH TOÁN KINH TẾ, CẢI TIẾN CHẾ ĐỘ TÀI CHÍNH.
1. Công tác hạch toán kinh tế
đang là khâu trọng yếu cho nên cần phải đặc biệt coi trọng chấn chỉnh lại, phải
tính toán đầy đủ những chi phí tạo ra sản phẩm của rừng (tạo rừng) nhằm tạo điều
kiện cho các lâm trường có thể bù đắp được chi phí sản xuất trong suốt quá
trình xây dựng rừng, và tái sản xuất được vốn rừng.
Trong năm 1985, Bộ Lâm Nghiệp, Uỷ
ban Kế hoạch Nhà nước cùng với các ngành có liên quan xây dựng lại điều lệ lập
và hạch toán giá thành sản xuất gỗ và lâm sản thay thế cho điều lệ giá thành
khai thác gỗ hiện hành đang có nhiều bất hợp lý.
Bộ Lâm nghiệp cần hoàn thiện quy
trình kỹ thuật xây dựng rừng, khai thác các loại rừng và các định mức kinh tế kỹ
thuật phù hợp với từng vùng để làm căn cứ xây dựng kế hoạch giá thành, hạch
toán kinh tế và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các lâm trường.
2. Bộ Lâm nghiệp phối hợp với
các ngành có liên quan xúc tiến nghiên cứu quy định giá cây đứng đối với rừng
thành thục và các giai đoạn rừng nửa thành phẩm khác (rừng khép tán, rừng nuôi
dưỡng...) để làm căn cứ tính toán đúng đắn giá cả sản phẩm lâm nhgiệp, cải tiến
chế độ cấp phát tài chính khâu tạo rừng và xây dựng chế độ hạch toán kinh tế và
quản lý vốn rừng mà Nhà nước đã giao cho các lâm trường quốc doanh.
Đối với tất cả các sản phẩm
chính của các lâm trường ghi trong kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước thực hiện chế
độ giá bán buôn xí nghiệp (giá thành + lợi nhuận định mức). Khi giao nộp sản phẩm,
lâm trường được thanh toán bằng giá bán buôn xí nghiệp.
3. Những vật tư đưa vào sản xuất
ở các lâm trường quốc doanh do Nhà nước cung ứng phải hạch toán vào giá thành sản
phẩm theo giá chỉ đạo. Vật tư do lâm trường tự tìm kiếm (kể cả vật tư vật tư nhập
khẩu) hạch toán vào giá thành sản phẩm theo giá thu mua trong khung giá do cơ
quan có thẩm quyền quy định.
4. Bộ Tài chính cùng với Bộ Lâm
nghiệp và các ngành có liên quan xúc tiến nghiên cứu sửa đổi lại chế độ đầu tư,
cấp phát và hạch toán vốn xây dựng rừng (trồng rừng, tu bổ, điều chế để chuyển
rừng tự nhiên thành rừng kinh tế...) phù hợp với đặc điểm sản xuất lâm nghiệp để
thúc đẩy các lâm trương quốc doanh nâng cao trách nhiệm từ khi trổng rừng cho đến
khi rừng thành thục đến tuổi khai thác sản phẩm.
Trong chu kỳ kinh doanh đầu
tiên, các lâm trường sẽ được Nhà nước đầu tư theo đúng luận chứng kinh tế kỹ
thuật được duyệt, giám đốc lâm trường có trách nhiệm quản lý và sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn đó và thu hồi vốn để bảo đảm kinh doanh trong chu kỳ tiếp theo.
Khuyến khích các lâm trường quốc doanh sử dụng và mở rộng nguồn vốn tự có của
mình và vay ngân hàng để xây dựng các công trình nhỏ, kinh doanh các sản phẩm kết
hợp, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất.
5. Cải tiến chế độ hạch toán tài
sản cố định trong các lâm trường quốc doanh theo hướng chỉ đưa vào tài sản cố định
của lâm trường các công trình sản xuất, đường sá có liên quan đến sản xuất và đời
sống.
6. Tạo điều kiện cho lâm trường
quốc doanh có đủ vốn cần thết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Vốn tự có. Lâm trường quốc doanh
được xây dựng và mở rộng vốn tự có từ các nguồn:
- Vốn cố định và vốn lưu động do
ngân sách cấp phát theo chế độ hiện hành.
- Quỹ khuyến khích phát riển sản
xuất.
- Quỹ khuyến khích xây dựng vốn
rừng được trích một phần từ lợi nhuận của sản xuất phụ.
- Nguồn vốn khấu hao cơ bản để lại
một phần hay toàn bộ, tuỳ theo yêu cầu mở mang, trang bị lại tài sản cố định.
- Nguồn vốn ngoại tệ được quyền
sử dụng.
- Các nguồn thu khác như tiền
thưởng về tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu, vốn hỗ trợ của cấp trên...
Lâm trường được quyền sử dụng vốn
tự có theo đúng mục đích quy định, có kế hoạch phát triển sản xuất, kinh doanh,
kể cả việc hùn vốn với các đơn vị kinh tế khác để liên doanh sản xuất.
Vốn tự có của lâm trường quốc
doanh không dùng hết được chuyển sang năm sau không phải nộp vào ngân sách Nhà
nước.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản:
- Nhà nước tập trung đầu tư lần
đầu theo luận chứng kinh tế kỹ thuật được duyệt.
- Đổi mới các công trình xây dựng
nhỏ, đầu tư theo chiều sâu, lâm trường đầu tư bằng vốn tự có, nếu còn thiếu thì
vay ngân hàng.
- Lâm trường có trách nhiệm quản
lý và sử dụng tốt các nguồn vốn đầu tư bảo đảm thu hồi đủ vốn cho chu kỳ kinh
doanh tiếp theo.
Vốn lưu động:
Trên cơ sở định mức ban đầu, Nhà
nước cấp 50%, lâm trường được vay ngân hàng số vốn cần thiết còn lại. Hàng năm
lâm trường có thể dùng một phần vốn tự có để bổ sung vốn lưu động. Trường hợp
do thay đổi nhiệm vụ sản xuất, giá vật tư, tiền lương công nhân mà vốn tự có
không đủ thì cơ quan chủ quản cùng với cơ quan tài chính, ngân hàng cùng cấp phải
kịp thời xác định lại vốn lưu động định mức mới cho lâm trường.
7. Lợi nhuận và phân phối lợi
nhuận.
a) Lợi nhuận định mức được tính
bằng tỷ lệ phần trăm trên giá thành hợp lý được duyệt theo quy định sau đây:
- Đối với sản phẩm sản xuất bằng
vật tư Nhà nước giao thì tỷ lệ lợi nhuận định mức được tính từ 10 đến 20% trên
giá thành hợp lý. Bộ Lâm nghiệp cùng Bộ Tài chính, Uỷ ban vật giá Nhà nước quy
định cụ thể cho từng loại sản phẩm trong khung mức nói trên.
- Lợi nhuận định mức của sản phẩm
sản xuất bằng vật tư do lâm trường tự tìm kiếm có đăng ký trong kế hoạch, được
xác định bằng lợi nhuận định mức theo số tiền tuyệt đối của sản phẩm cùng loại
do Nhà nước cung ứng vật tư.
b) Lợi nhuận thực hiện của lâm
trường được phân phối như sau:
- Nếu là sản phẩm sản xuất bằng
vật tư tự tìm kiếm thì nộp vào ngân sách 50% (bao gồm cả ngân sách Trung ương
và ngân sách địa phương) và để lại cho lâm trường 50%.
- Nếu là sản phẩm sản xuất bằng
vật tư tự tìm kiếm thì nộp vào ngân sách Nhà nước (bao gồm cả ngân sách Trung
ương và ngân sách địa phương) từ 20 đến 40%, để lại cho lâm trường từ 60 đến
80%.
Lợi nhuận sản xuất kinh doanh phụ
nộp vào ngân sách Nhà nước (bao gồm cả ngân sách Trung ương và ngân sách địa
phương) 30% để lại cho lâm trường 70%.
Lợi nhuận để lại cho lâm trường
sau khi thanh toán các khoản nộp bắt buộc như phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, phạt
nợ ngân hàng quá hạn, chi trả các khoản bất hợp lý không được hạch toán vào giá
thành, số còn lại (coi như 100%) được phân phối như sau:
- Trích quỹ khuyến khích phát
triển sản xuất và bổ sung vốn lưu động định mức tối thiểu từ 20 đến 30% và
không hạn chế số tối đa trong đó dành từ 1 đến 2% để lập quỹ dự trữ tập trung của
cơ quan quản lý cấp trên.
- Số còn lại sau khi đã dành 1%
để lập quỹ Bộ trưởng (quỹ liên hiệp các xí nghiệp, công ty... nếu có) được sử dụng
để lập quỹ khen thưởng và phúc lợi. Giám đốc lâm trường cùng với công đoàn quyết
định tỷ lệ trích cho mỗi quỹ theo hướng khoảng 2/3 cho quỹ khen thưởng và 1/3
cho quỹ phúc lợi.
Nếu quỹ khen thưởng vượt quá 30%
của quỹ lương cơ bản thực hiện thì lâm trường phải nộp một tỷ lệ phần trăm luỹ
tiến từng phần vào ngân sách Nhà nước theo quy định cụ thể của Bộ Tài chính.
Toàn bộ quỹ phúc lợi để lại cho
lâm trường do công đoàn cơ sở chủ động cùng với giám đốc lập phương án sử dụng,
đưa ra hội nghị công nhân viên chức thảo luận quyết định.
Các lâm trường quốc doanh và các
liên hiệp lâm - nông - công nghiệp của Trung ương có nghĩa vụ đóng góp vào ngân
sách địa phương nơi lâm trường đóng theo đúng quy định tại điểm 9, mục II Nghị
quyết số 138-HĐBT ngày 19-11-1983 của Hội đồng Bộ trưởng. Ngoài ra, lâm trường
không phải đóng góp cho ngân sách địa phương (tỉnh, quận, huyện, phường, xã) bất
cư một khoản nào khác trích từ quỹ púc lợi của lâm trường.
- Lợi nhuận do kinh doanh sản xuất
phụ thu được, sau khi đã trích nộp vào ngân sách (30%), phần còn lại sẽ được
trích một khoản tối đa bằng 20% so với tổng giá thành hợp lý của các sản phẩm
kinh doanh phụ đã tiêu thụ để trích lập quỹ khuyến khích phát triển sản xuất,
quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng của lâm trường. Số còn lại dùng để trích lập quỹ
khuyến khích phát triển vốn rừng. Bộ Tài chính và Bộ Lâm nghiệp sẽ quy định cụ
thể chế độ quản lý và sử dụng quỹ này ở các lâm trường quốc doanh.
C. VỀ TIÊU
THỤ SẢN PHẨM VÀ KHUYẾN KHÍCH SẢN XUẤT SẢN PHẨM XUẤT KHẨU.
1. Đối với những sản phẩm do lâm
trường quốc doanh sản xuất nằm trong chỉ tiêu pháp lệnh thì lâm trường phải
giao nộp theo đúng chỉ tiêu quy định, kể cả phần sản phẩm đã sản xuất vượt kế
hoạch đều phải giao nộp và tiêu thụ theo kế hoạch được duyệt, nhưng được xét
thưởng về mặt giá trị. Những sản phẩm khác sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao
nộp thì lâm trường được quyền bán cho các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa và
phải chấp hành đúng các quy định về quản lý thị trường.
2. Những sản phẩm phụ của các
lâm trường quốc doanh phải ưu tiên bán cho các tổ chức thương nghiệp xã hội chủ
nghĩa theo giá bảo đảm kinh doanh thông qua chế độ hợp đồng kinh tế. Trường hợp
các tổ chức này không nhận tiêu thụ thì lâm trường được quyền bán cho các tổ chức
tiêu thụ khác theo giá thoả thuận.
3. Để khuyến khích các lâm trường
quốc doanh phát huy tốt các tiềm năng kinh tế của đất rừng, đối với các sản phẩm
nông nghiệp do lâm trường sản xuất được bán cho Nhà nước theo giá bảo đảm kinh
doanh. Nếu lâm trường quốc doanh sử dụng lương thực, thực phẩm do mình sản xuất
được, giảm bớt phần lương thực, thực phẩm do Nhà nước cung cấp theo tiêu chuẩn
định lượng thì phần lương thực, thực phẩm đã sử dụng đó được Nhà nước thanh
toán theo giá bảo đảm kinh doanh (cấp bù chênh lệch giá).
4. Cho phép các lâm trường quốc
doanh được dùng gỗ cành ngọn, gỗ sâu bệnh để chế biến hàng tiêu dùng và liên
doanh liên kết kinh tế với các đơn vị kinh tế khác để tiêu thụ theo sự chỉ đạo
và hướng dẫn của Bộ Lâm nghiệp. Cho phép một số lâm trường quốc doanh, liên hiệp
lâm - nông - công nghiệp có điều kiện, được mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm và
bán các sản phẩm do mình sản xuất tại các thị trấn,thị xã, thành phố, nhưng phải
chấp hành đúng các chế độ quản lý tài chính, giá cả, thị trường của Nhà nước.
5. Khuyến khích sản xuất lâm
nông sản xuất khẩu.
Lợi nhuận định mức của những lâm
sản, nông sản xuất khẩu được tính cao hơn so với lợi nhuận định mức của sản phẩm
cùng loại tiêu thụ trong nước từ 10 đến 20%.
Các lâm trường quốc doanh có mặt
hàng xuất khẩu được hưởng một phần lãi bằng ngoại tệ, trên cơ sở đó, lập quỹ
ngoại tệ để phát triển sản xuất và có quyền sử dụng ngoại tệ theo các quy định
hiện hành. Ngoại tệ được sử dụng để mua vật tư thiết bị phục vụ sản xuất và mua
một số hàng hoá thiết yếu phục vụ nhu cầu đời sống, văn hoá cho cán bộ, công
nhân viên trong xí nghiệp.
Các liên hiệp xí nghiệp và lâm
trường có mặt hàng xuất khẩu lớn, có kế hoạch ổn định, được cấp trên cho phép
có thể trực tiếp tham gia xuất khẩu và thành lập tổ chức chuyên lo công tác xuất,
nhập khẩu theo hướng dẫn thống nhất của Bộ Lâm nghiệp và quản lý về mặt Nhà nước
của Bộ Ngoại thương.
D. VỀ LAO ĐỘNG,
TIỀN LƯƠNG VÀ ĐỜI SỐNG.
1. Cho phép các lâm trường quốc
doanh được chủ động thu hút lao động và dân cư tại chỗ, lao động đi xây dựng
kinh tế mới (kể cả gia đình công nhân, viên chức muốn đến lâm trường quốc doanh
để tham gia sản xuất và đoàn tụ gia đình) chủ yếu bằng hình thức hợp đồng lao động
dài hạn đáp ứng nhu cầu lao động theo kế hoạch được duyệt. Số lao động này được
hưởng các chính sách lao động đi xây dựng kinh tế mới và được giải quyết quyền
lợi thông qua đơn giá khoán. Giám đốc các lâm trường quốc doanh có trách nhiệm
sử dụng hợp lý nguồn lao động đó để phát triển sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp
và các nghề khác, bảo đảm đời sống của họ. Bộ Lâm nghiệp và Bộ Lao động hướng dẫn
một số địa phương tiến hành thí điểm và rút kinh nghiệm để phổ biến.
2. Mở rộng việc thực hiện chế độ
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động. Khuyến khích các hình thức khoán gọn
để tăng cường trách nhiệm quản lý, bảo vệ và nuôi trồng rừng.
3. Mỗi gia đình cán bộ, công
nhân viên chức của lâm trường quốc doanh được cấp từ 500 đến 1000m2
đất (tuỳ điều kiện từng nơi) để làm nhà và lập vườn gia đình. Tuỳ theo điều kiện
cụ thể ở từng nơi, các lâm trường quốc doanh có thể bán gỗ, tre, nứa và nhượng
lại vật liệu cho cán bộ, công nhân viên chức làm nhà ở tại các lâm trường quốc
doanh để ổn định đời sống và sản xuất.
4. Trong kế hoạch xây dựng cơ bản
ở các lâm trường quốc doanh, cần chú trọng xây dựng nhà ở, cơ sở y tế, trường học
và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để cải thiện đời sống cho công nhân lâm trường.
5. Đặt thêm một khoản phụ cấp
cho cán bộ, công nhân, viên chức công tác ở các lâm trường quốc doanh có nhiều
điều kiện khó khăn trong công tác và sinh hoạt. Bộ Lâm nghiệp cùng Bộ Lao động
nghiên cứu trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định.
6. Đối với con em các cán bộ,
công nhân, viên chức (kể cả lao động theo hình thức hợp đồng) công tác ở các
lâm trường quốc doanh nằm ở các vùng xa xôi, hẻo lánh được hưởng các chế độ ưu
tiên về học tập như con em của các đồng bào dân tộc sinh sống trên cùng điạ
bàn.
III. CHẤN CHỈNH
BỘ MÁY QUẢN LÝ CÁC LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH VÀ CÁC LIÊN HIỆP LÂM - NÔNG - CÔNG
NGHIỆP.
Cần chấn chỉnh bộ máy quản lý
các lâm trường cho gọn nhẹ. Kiên quyết xoá bỏ các tầng nấc trung gian không cần
thiết cho sản xuất, kinh doanh.
Theo tinh thần Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ 6, cần tăng cường trách nhiệm và quyền hạn của giám đốc
lâm trường trong các việc xây dựng kế hoạch, tổ chức sản xuất, kinh doanh, sử dụng
vốn, lao động, định hình thức trả lương, tiền thưởng...
Đồng thời, phát huy mạnh mẽ quyền
làm chủ tập thể của cán bộ, công nhân viên chức. Thành lập hội đồng lâm trường
với thành phần giám đốc, các phó giám đốc, các kỹ sư trưởng, các đội trưởng và
đại biểu cán bộ, công nhân làm tư vấn cho giám đốc. Hội đồng lâm trường có quyền
thảo luận các dự án kế hoạch kinh tế, các chủ trương, kế hoạch tổ chức sản xuất,
đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật, tổ chức đời sống... Hàng năm, giám đốc và
thư ký công đoàn có trách nhiệm tổ chức đại hội công nhân, viên chức lâm trường
hoặc đại hội đại biểu để quần chúng tham gia góp ý kiến.
Bộ Lâm nghiệp, Viện nghiên cứu
quản lý kinh tế Trung ương, Ban tổ chức của Chính Phủ nghiên cứu quy chế tổ chức
các liên hiệp lâm - nông - công nghiệp và điều lệ hoạt động trình Hội đồng Bộ
trưởng quyết định.
IV. TĂNG CƯỜNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH
Bộ Lâm nghiệp có chức năng thống
nhất quản lý toàn ngành trên phạm vi cả nước về các mặt quy hoạch, các chính
sách phát triển khoa học kỹ thuật, phát triển kinh tế lâm nghiệp và các chính
sách, chế độ cụ thể về tổ chức quản lý nông trường, liên hiệp lâm - nông - công
nghiệp, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ chuyên môn về lâm nghiệp, hoàn thiện
chính sách giao đất, giao rừng cho hợp tác xã và nông dân.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố ngoài nhiệm vụ trực tiếp quản lý các lâm trường và liên hiệp lâm - nông -
công nghiệp được phân công có trách nhiệm quản lý Nhà nước trên phạm vi lãnh thổ
tất cả các lâm trường quốc doanh và liên hiệp lâm - nông - công nghiệp của
Trung ương ở địa phương theo các chế độ quản lý hiện hành. Uỷ ban nhân dân các
dịa phương cùng với Bộ Lâm nghiệp phối hợp tổ chức tốt sự phân công và hợp tác
giữa các lâm trường và liên hiệp lâm - nông - công nghiệp để phát triển sản xuất,
kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao, giám sát các hoạt động về mọi mặt kinh tế,
xã hội, giúp đỡ các lâm trường và liên hiệp lâm - nông - công nghiệp phát triển
sản xuất, kinh doanh và tổ chức đời sống cho công nhân viên chức.
Giám đốc các lâm trường và Tổng
giám đốc các liên hiệp lâm - nông - công nghiệp có trách nhiệm báo cáo tình
hình hoạt động của mình với cơ quan chủ quản và Uỷ ban nhân dân địa phương về dự
án và tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh, việc thực hiện các chủ
trương chính sách của Nhà nước và các vấn đề khác có quan hệ với địa phương.
Các Sở lâm nghiệp tỉnh, thành phố
cần tăng cường cho cấp huyện đủ sức quản lý các lâm trường quốc doanh được phân
công.
Bộ Lâm nghiệp và các ngành có
liên quan, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương
chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành Nghị quyết này trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn được giao và ban hành hoặc trình Hội đồng Bộ trưởng ban
hành những chính sách chế độ cần thiết.
Nghị quyết này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày ký. Các quy định trước đây trái với Nghị quyết này đều bãi bỏ.