Nghị quyết số 281-HĐBT về phương hướng, nhiệm vụ phát triển sản xuất cao su trong kế hoạch 1986 - 1990 và đến năm 2000 do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Số hiệu | 281-HĐBT |
Ngày ban hành | 12/12/1985 |
Ngày có hiệu lực | 27/12/1985 |
Loại văn bản | Nghị quyết |
Cơ quan ban hành | Hội đồng Bộ trưởng |
Người ký | Đỗ Mười |
Lĩnh vực | Thương mại,Tài nguyên - Môi trường |
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 281-HĐBT |
Hà Nội, ngày 12 tháng 12 năm 1985 |
Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V và thực hiện kế hoạch Nhà nước 1981-1985, trong mấy năm qua, ngành sản xuất cao-su đã có bước phát triển đáng kể. Tính đến nay đã có 150.000 hécta cao-su, trong đó 60. 000 hécta đang khai thác, hàng năm sản xuất khoảng 50.000 tấn cao-su để xuất khẩu và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, thủ công nghiệp trong nước.
Đồng thời, đã xây dựng được một cơ sở vật chất kỹ thuật về vườn cây, cơ sở chế biến, nghiên cứu khoa học kỹ thuật, và một đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật tương đối đông đảo, lực lượng máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng chuyên ngành khá lớn.
Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi về đất đai, khí hậu, lao động và có truyền thống về trồng cao-su. Để phát huy các ưu thế và cơ sở vật chất kỹ thuật trên đây nhằm phát triển sản xuất cao-su thành ngành sản xuất lớn, sản phẩm cao su thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực quan trọng của nước ta, Hội đồng Bộ trưởng quyết định.
Trong kế hoạch 1986-1990, phải bố trí kế hoạch mở rộng quy mô diện tích trồng mới với mức tối thiểu là 160.000 hécta để cùng với diện tích hiện có đạt cho được sản lượng 500.000 - 600.000 tấn cao-su năm 2000. Cần trồng tập trung vào các địa bàn chủ yếu là các tỉnh miền Đông Nam bộ (Sông Bé, Đồng Nai, Tây Ninh) và một phần ở các tỉnh Tây Nguyên (Gia Lai - Kon Tum, Đắc Lắc) để hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá cao. Ngoài quy mô diện tích do Trung ương đầu tư và trực tiếp quản lý (bao gồm cả Tổng cục Cao-su và lực lượng quân đội chuyên trách làm kinh tế), khuyến khích các địa phương có điều kiện trồng cao-su huy động mọi nguồn vốn và lao động tại chỗ và liên doanh, liên kết để phát triển sản xuất cao-su nhằm bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp, thủ công nghiệp địa phương và tăng khối lượng cao-su xuất khẩu.
Trong việc bố trí đất đai trồng cao-su, nhất là ở các tỉnh miền Đông cần chú ý đến tình hình thuỷ lợi được cải thiện do có các công trình thuỷ lợi Dầu Tiếng, Phước Hoà và thuỷ điện Trị An mà bố trí cơ cấu cây trồng cho hợp lý. Nói chung, những nơi có nguồn nước cần ưu tiên cho sản xuất các loại cây ngắn ngày, có yêu cầu độ ẩm cao phải tưới nước thường xuyên và có hiệu quả kinh tế lớn. Nhưng, cần bảo đảm cho diện tích cao-su được tập trung để thuận tiện cho việc chế biến mủ.
Không được phá rừng gỗ và rừng lâm sản có giá trị khác để trồng cao su.
Đối với diện tích cao-su đã sắp hết chu kỳ khai thác, năng suất thấp.. ., cần thực hiện biện pháp kích thích bằng hoá chất để phát huy hết khả năng sản xuất mủ trước khi thanh lý. Việc tiến hành thanh lý cũng phải có kế hoạch chặt chẽ để không ảnh hưởng đến sản lượng cao-su khai thác hàng năm. Đồng thời, phải chú ý tận thu tốt gỗ, củi... để tạo vốn đầu tư trồng lại, và không đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư mới.
Đối với diện tích cao-su đang trong thời kỳ kiến thiết cơ bản phải áp dụng đầy đủ các biện pháp thâm canh, trồng dặm, bảo đảm trên 90% cây tốt. Cần có biện pháp thích hợp thực hiện chính sách khoán đến nhóm và người lao động. Quản lý chặt chẽ các vườn cây và có biện pháp chăm sóc cần thiết bảo đảm kế hoạch dựa vào khai thác có lợi.
Việc trồng mới cao-su phải bảo đảm nghiêm ngặt các yêu cầu kỹ thuật thâm canh ngay từ đầu. Phải hết sức coi trọng việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhất là phổ biến nhanh những giống mới có năng suất cao, chống bệnh, áp dụng rộng rãi kỹ thuật trồng bầu, trồng stum, hạn chế trồng hạt, nhằm đạt tỷ lệ sống cao, cây phát triển đồng đều, định hình nhanh, rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản và đưa vào khai thác sớm. Thực hiện tốt biện pháp trồng cây chắn gió, cây phủ đất (cỏ kalô-C, tiga... ) chống xói mòn, nhất là ở Tây Nguyên.
Cần có kế hoạch tận dụng khả năng trồng cây công nghiệp ngắn ngày, cây lương thực, cây thực phẩm khi cao-su chưa khép tán như lạc, đậu, ngô, khoai, rau quả... để giải quyết một số nhu cầu tại chỗ và có thêm sản phẩm hàng hoá xuất khẩu tạo vốn phát triển cao-su.
Đi đôi với cải tạo khu vực sản xuất tư nhân, Tổng cục Cao su cần phối hợp với các ngành Hoá chất, Công nghiệp, Thủ công nghiệp, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và các địa phương tổ chức sắp xếp lại sản xuất các mặt hàng từ nguyên liệu cao-su trong các xí nghiệp quốc doanh cũng như tập thể. Việc cung cấp cao su cho các địa phương, các ngành và cơ sở sản xuất quốc doanh và tập thể phải được thực hiện theo kế hoạch của Nhà nước; khắc phục mọi sơ hở làm thất thoát cao-su ra thị trường như hiện nay.
Củng cố hai trường trung học đã có và thành lập thêm trường trung học nghiệp vụ quản lý và các trường công nhân kỹ thuật cho ngành cao-su. Ngoài ra, cần mở rộng việc bồi dưỡng ngắn hạn, đào tạo tại nông trường, xí nghiệp bằng hình thức luyện tay nghề, thi thợ giỏi.
Đối tượng tuyển sinh cần chú trọng cán bộ, công nhân viên, con em cán bộ, công nhân viên ngành sản xuất cao-su và con em đồng bào địa phương vùng sản xuất cao-su.
Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp cần có chính sách ưu tiên cần thiết trong việc tuyển chọn và đào tạo. Bộ Giáo dục cần có chương trình giáo dục hướng nghiệp về cao su cho các trường phổ thông cơ sở, phổ thông trung học trong vùng chuyên canh cao-su.
Phải tổ chức áp dụng rộng rãi chính sách khoán trong các xí nghiệp công nghiệp, nông trường, cơ sở dịch vụ... đến phân xưởng, đội, tổ và người lao động. Giúp đỡ cho cán bộ, công nhân phát triển kinh tế gia đình để cải thiện đời sống.
Tổng cục Cao-su cùng Bộ Lao động và Bộ Tài chính nghiên cứu các chế độ lương bậc, phụ cấp và các chế độ ưu tiên cần thiết khác, đặc biệt là ở những vùng khí hậu khắc nghiệt và điều kiện sinh hoạt có nhiều khó khăn trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định.
Ngoài nguồn vốn đầu tư thực hiện dưới hình thức hợp tác kinh tế của các nước như trên đã nói, để tăng cường khả năng đầu tư ở trong nước, Nhà nước bổ sung một số chính sách sau đây: ngành cao su được phép sử dụng toàn bộ quỹ phát triển sản xuất (đã trừ các khoản trích theo chế độ), toàn bộ quỹ khấu hao cơ bản, lãi từ sản xuất phụ, sản phẩm trồng xen trên diện tích trồng cao su, kể cả sản phẩm trồng xen xuất khẩu. Cho ngành dược sử dụng một phần lợi nhuận xuất khẩu và vật tư để phát triển sản xuất theo Nghị quyết về đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu số 177-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành ngày 15-6-1985.