Nghị quyết 28/NQ-HĐND năm 1998 về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1998 do tỉnh Bến Tre ban hành

Số hiệu 28/NQ-HĐND
Ngày ban hành 21/01/1998
Ngày có hiệu lực 21/01/1998
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Tỉnh Bến Tre
Người ký Nguyễn Văn Thới
Lĩnh vực Thương mại,Văn hóa - Xã hội

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 28/NQ-HĐND

Bến Tre, ngày 21 tháng 01 năm 1998

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1998

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

Căn cứ vào Điều 120 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố ngày 18 tháng 4 năm 1992;

Căn cứ vào Điều 31 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (sửa đổi) được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ V thông qua ngày 21 tháng 6 năm 1994;

Sau khi xem xét báo cáo của UBND tỉnh, các báo cáo của các ngành chức năng, thuyết trình của các Ban Hội đồng nhân dân tỉnh và ý kiến của Đại biểu HĐND tỉnh,

QUYẾT NGHỊ:

Hội đồng nhân dân tỉnh tán thành báo cáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh về tình hình kinh tế - xã hội năm 1997, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1998 tỉnh Bến Tre.

Năm 1997, tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh có những chuyển biến tích cực, kinh tế vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá, kết cấu hạ tầng được bổ sung năng lực sản xuất ngày càng tăng; sự nghiệp văn hoá - giáo dục có nhiều bước tiến mới, các chương trình y tế quốc gia thực hiện đạt và vượt kế hoạch, tỷ lệ phát triển dân số giảm so với năm 1996; chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững; một số chính sách xã hội được thực hiện có kết quả; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện.

Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ đã đạt được, về kinh tế của tỉnh còn nhiều khó khăn, yếu kém trong quá trình phát triển: hiệu quả nền kinh tế còn thấp, chưa thu hút được vốn đầu tư, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm kém, khả năng cạnh tranh không cao, hàng nông sản tiêu thụ chậm, không ổn định; tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi; công tác chống tham nhũng, chống gian lân thương mại, chống lãng phí, cải cách hành chính đạt kết quả thấp. Tình hình vi phạm pháp luật và trọng tội phạm vẫn còn cao, một số bộ phận dân cư vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo khó còn cao.

Để tiếp tục duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá, tăng thêm tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế đi đôi với việc giải quyết tốt những vấn đề bức xúc của xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, trong năm 1998 phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội (so với năm 1997) như sau:

Tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng 8,5% .

Trong đó:

+ Giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp tăng 5%.

+ Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng 13%.

+ Giá trị các ngành dịch vụ tăng 17%.

+ Tổng kim ngạch xuất khẩu: 43 triệu USD, tăng 20%.

+ Tỷ lệ huy động vào ngân sách (so với GDP): 9% .

+ Giảm tỷ suất sinh: 0.06%.

Hội đồng nhân dân tán thành các nhiệm vụ cụ thể và các biện pháp lớn mà Uỷ ban nhân dân tỉnh đã báo cáo, các Ban và các Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh đã góp ý bổ sung đồng thời nhấn mạnh một số vấn đề sau:

1. Về kinh tế:

- Nông – lâm – ngư nghiệp:

Tiếp tục phát triển trên cơ sở quy hoạch nông, lâm, ngư nghiệp bằng các chương trình, dự án đã được triển khai, tạo bước chuyển biến mới về cơ cấu sản xuất. Đẩy mạnh và tạo hiệu quả cao trong công tác khuyến nông, khuyến ngư, nhân rộng các mô hình sản xuất giỏi đã được tổng kết, đưa nhanh các thành tựu khoa học công nghệ sinh học tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp, kết hợp với tăng cường chế biến và tìm thị trường tiêu thụ nông sản để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, thúc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, giải quyết tình trạng nông nhàn, phân công lại lao động nông thôn.

+ Về cây lúa:

Tiếp tục hoàn chỉnh đồng bộ và phát huy hiệu quả các công trình thủy lợi đầu mối, tập trung đầu tư triển khai thực hiện quy hoạch vùng lúa năng suất cao (trong đó có 1.000 ha lúa xuất khẩu), kết hợp phát triển màu trong cơ cấu canh tác; nhân rộng các mô hình sản xuất cây lúa kết họp với nuôi tôm, cá…Phấn đấu năm 1998 đạt sản lượng 370.000 tấn lương thực với năng suất bình quân 38-40 tạ/ha.

+ Về kinh tế vườn:

Tiếp tục thực hiện chương trình cải tạo vườn tạp, bình tuyển, du nhập nhân nhanh giống cây ăn trái quí, sạch bệnh để cung ứng cho dân; phát triển mạnh việc xây dựng làng hoa kiêng, nhanh chóng xin chủ trương Chính phủ cho chuyển đất trồng lúa kém hiệu quả thành đất nuôi trồng thuỷ sản và các cây trồng khác. Đầu tư thực hiện chương trình xây dựng vườn chuyên canh, xen canh hiệu quả cao. Khẩn trương xây dựng các tuyến đê ven cồn, đê ven sông lớn, ven biển để đảm bảo sản xuất và phòng chống thiên tai .

+ Về thuỷ sản, lâm nghiệp:

[...]