Nghị quyết 21/2011/QH13 về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII do Quốc hội ban hành
Số hiệu | 21/2011/QH13 |
Ngày ban hành | 26/11/2011 |
Ngày có hiệu lực | 26/11/2011 |
Loại văn bản | Nghị quyết |
Cơ quan ban hành | Quốc hội |
Người ký | Nguyễn Sinh Hùng |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
QUỐC
HỘI |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Nghị quyết số: 21/2011/QH13 |
Hà Nội, ngày 26 tháng 11 năm 2011 |
VỀ CHẤT VẤN VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN TẠI KỲ HỌP THỨ 2, QUỐC HỘI KHÓA XIII
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Căn cứ Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội;
Trên cơ sở kết quả chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII,
QUYẾT NGHỊ:
1. Trong lĩnh vực giao thông vận tải:
- Khẳng định quyết tâm chính trị của Chính phủ, các ngành, các cấp trong việc đẩy lùi tình trạng tai nạn giao thông, nạn ùn tắc giao thông; xác định chỉ tiêu từ năm 2012 giảm số vụ tai nạn, số người chết do tai nạn giao thông từ 5-10% mỗi năm; giảm mức độ ùn tắc giao thông ở Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; lấy năm 2012 là năm thiết lập lại kỷ cương trong quản lý trật tự, an toàn giao thông.
- Tán thành các chủ trương, biện pháp của Chính phủ, Bộ giao thông vận tải nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an toàn giao thông; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn hóa giao thông; tạo chuyển biến rõ nét trong việc quản lý người và phương tiện tham gia giao thông, công tác đăng kiểm phương tiện giao thông; tăng mức xử phạt vi phạm pháp luật về an toàn giao thông; xóa các “điểm đen” tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa.
- Giao Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ giao thông vận tải, Bộ công an, các bộ, ngành hữu quan, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm chống ùn tắc giao thông đã báo cáo Quốc hội.
2. Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn:
- Tăng đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, bảo đảm mức đầu tư 5 năm tới cao gấp 2 lần 5 năm 2005-2010; phấn đấu đến năm 2015 cả nước có 20% số xã đạt các tiêu chí nông thôn mới.
- Tổ chức nghiên cứu, sản xuất, cung ứng giống chất lượng đáp ứng nhu cầu sản xuất của các vùng, miền; gắn sản xuất với tiêu thụ, có chính sách phù hợp để các doanh nghiệp, siêu thị tiêu thụ sản phẩm của nông dân; áp dụng tiêu chuẩn nhập khẩu hàng hoá nông sản phù hợp với thông lệ quốc tế; chấn chỉnh công tác thu mua nông sản; xây dựng các chợ đầu mối, tăng cường xúc tiến thương mại, mở sàn giao dịch, giới thiệu nông sản; chống bán phá giá và phân biệt đối xử đối với hàng nông sản Việt Nam.
- Thực hiện đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp, có giải pháp đồng bộ hạn chế chuyển đổi mục đích sử dụng đất trồng lúa; hỗ trợ nông dân sản xuất lúa, bảo đảm giữ được 3,812 triệu ha đất trồng lúa.
- Phát triển các hình thức hợp tác trong nông nghiệp, liên kết 4 nhà, liên kết vùng; nhân rộng mô hình “cánh đồng mẫu lớn” để cơ giới hóa và áp dụng khoa học, công nghệ tiên tiến vào sản xuất.
- Tổ chức thực hiện tốt việc thí điểm bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2011–2013, nhất là bảo hiểm rủi ro do thiên tai, dịch bệnh đối với cây lúa, gia súc, gia cầm, thủy sản.
- Tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh, sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật; xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân sai phạm.
- Rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội gắn với việc ứng phó tác động của biến đổi khí hậu, phòng, chống bão lụt, đặc biệt là quy hoạch hệ thống đê biển. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển các dự án bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý giao đất rừng để rừng có chủ quản lý, sử dụng, bảo vệ; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng; hỗ trợ mạnh mẽ chính quyền địa phương, lực lượng kiểm lâm và nông dân trong việc trồng rừng, bảo vệ rừng.
3. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo:
- Xây dựng Đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; quy định chặt chẽ các điều kiện liên kết đào tạo với nước ngoài, đào tạo từ xa, đào tạo tại chức để đảm bảo chất lượng đào tạo đại học; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các cơ sở giáo dục đại học vi phạm điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo. Quản lý chặt chẽ việc dạy thêm, học thêm, không để gây quá tải và áp lực cho học sinh cấp cơ sở.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục, đào tạo. N ăm 2012, thực hiện chế độ trợ cấp đối với đội ngũ giáo viên đã nghỉ hưu không được hưởng chế độ thâm niên; chế độ phụ cấp cho giáo viên mầm non, chú trọng giáo viên mầm non dạy ở thôn, bản và chế độ đối với học sinh nghèo người dân tộc thiểu số, các nhà sư, nhà giáo dạy chữ Khmer và chữ các dân tộc thiểu số khác; thực hiện lộ trình phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.
- Tiếp tục ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo con em đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn, miền Tây Nam bộ, Tây Nguyên, duyên dải miền Trung và miền núi phía Bắc.
- Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với điện, xăng dầu, than và các hàng hóa, dịch vụ quan trọng khác, có chính sách hỗ trợ phù hợp đối với các đối tượng chính sách. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này phải công khai minh bạch kết quả sản xuất, kinh doanh và giá thành sản phẩm để đại biểu Quốc hội và nhân dân giám sát; năm 2015, thực hiện xong việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành.
- Tiếp tục thực hiện chính sách bình ổn giá; gắn kết lưu thông phân phối với người sản xuất, bán lẻ; mở rộng đối tượng thực hiện đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa, triển khai rộng rãi ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.