BỘ
CHÍNH TRỊ
-----
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
-------
|
Số:
07-NQ/TW
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 11 năm 2001
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã
xác định nhiệm vụ “Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc
tế và khu vực củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế”. Ngày 18
tháng 11 năm 1996, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về kinh tế đối ngoại nhằm chỉ
đạo việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã
khẳng định chủ trương ''Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực
bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả
bền vũng''.
1. Thực hiện đường lối, chủ trương
trên đây của Đảng, những năm qua nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng
trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại:
- Đã đẩy mạnh quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế: mở rộng mạnh mẽ quan hệ kinh tế song phương và đa phương; phát
triển quan hệ đầu tư với gần 70 nước và lãnh thổ; bình thường hoá quan hệ với các
tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ
quốc Tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); gia nhập Hiệp hội các nước Đông
Nam Á (ASEAN) và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); tham gia sáng lập Diễn
đàn Á-Âu (ASEM); gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
(APEC); trở thành quan sát viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và đang
tiến hành đàm phán để gia nhập tổ chức này. Nước ta cũng đã ký Hiệp định khung
về hợp tác kinh tế với Liên minh châu Âu (EU) và Hiệp định Thương mại song
phương với Hoa Kỳ theo chuẩn mực của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Để tăng cường việc chỉ đạo công tác
hội nhập kinh tế quốc tế, Chính phủ đã thành lập Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh
tế quốc tế và Uỷ ban đã có những đóng góp tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ
mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế.
Thực hiện đường lối đổi mới, chính
sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã mở rộng được quan hệ đối ngoại, vượt qua
được những khó khăn về thị trường do những biến động Liên Xô cũ và Đông Âu gây
ra; phá được thế bị bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng được
môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao
vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới, hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế ở khu vực vào cuối những năm
90 của thế kỷ XX.
- Thu hút được một số lượng đáng
kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA),
tiếp thu được nhiều thành tựu mới về khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý.
- Từng bước đưa hoạt động của các
doanh nghiệp và nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, góp phần tạo lập tư duy
kinh tế mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Bước đầu xây dựng được một đội
ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại và quản lý kinh doanh thích nghi dần với
điều kiện mới, tạo tiền đề để tiếp tục quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong
những năm tiếp theo.
Với những kết quả đó, chúng ta đã
từng bước thực hiện được chủ trương kết hợp phát huy nội lực với ngoại lực, hình
thành sức mạnh tổng hợp đưa đến những thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng
trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
an ninh quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc.
2. Tuy nhiên, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế vừa qua cũng bộc lộ nhiều mặt yếu kém:
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc
tế đã được khẳng định rõ trong nhiều nghị quyết của Đảng và trên thực tế đã được
thực hiện từng bước, nhưng nhận thức về nội dung, bước đi, lộ trình hội nhập
kinh tế quốc tế chưa đạt được sự nhất trí cao và nhất quán, một bộ phận cán bộ
chưa thấy hết và chủ động tranh thủ những cơ hội mở ra, hoặc chưa nhận thức đầy
đủ những thách thức sẽ nảy sinh, để từ đó có kế hoạch thúc đẩy nền kinh tế nước
ta vươn lên chủ động hội nhập có hiệu quả; cơ cấu kinh tế chậm được dịch chuyển
để luôn phát huy được lợi thế so sánh của đất nước, không ít chủ trương, cơ
chế, chính sách chậm được đổi mới cho phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế.
- Công tác hội nhập kinh tế quốc
tế mới được triển khai chủ yếu ở các cơ quan trung ương và một số thành phố lớn,
sự tham gia của các ngành, các cấp, của các doanh nghiệp còn yếu và chưa đồng
bộ, vì vậy chưa tạo được sức mạnh tổng hợp cần thiết bảo đảm cho quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả cao.
- Chưa hình thành được một số kế
hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế, một lộ trình hợp lý thực
hiện các cam kết quốc tế.
- Doanh nghiệp nước ta nói chung
còn ít hiểu biết về thị trường thế giới và luật pháp quốc tế năng lực quản lý còn
yếu, trình độ công nghệ còn lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng
cạnh tranh còn yếu kém, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp và bảo hộ của
Nhà nước còn nặng.
- Môi trường kinh doanh ở nước ta
tuy đã được cải thiện đáng kể song về nhiều mặt còn yếu kém: hệ thống luật pháp
còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng và nhất quán; kết cấu hạ tầng phát
triển chậm; trong bộ máy hành chính còn nhiều biểu hiện của bệnh quan liêu và
tệ tham nhũng, trình độ nghiệp vụ yếu kém, nguồn nhân lực chưa được đào tạo tốt.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác kinh
tế đối ngoại còn thiếu và yếu; tổ chức chỉ đạo chưa sát và kịp thời; các cấp,
các ngành chưa quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuẩn bị
tham gia hội nhập. Đây là nguyên nhân sâu xa của những yếu kém, khuyết điểm hợp
tác kinh tế với nước ngoài.
Phần thứ hai
NỘI DUNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ
I. MỤC TIÊU CỦA HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trước mắt là thực
hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội 2001-2005 và Kế hoạch 5 năm 2001-2005.
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
l. Quán triệt chủ trương được xác
định tại Đại hội IX là: ''Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu qủa hợp tác quốc tế, bảo đảm độc
lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường''.
2. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự
nghiệp của toàn dân; trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo.
3. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá
trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không
ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính
hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể;
vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn,
nôn nóng.
4. Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền
kinh nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ
phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế
mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển
và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh trập trung bao cấp sang kinh tế
thị trường.
5. Kết hợp chặt chẽ quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, thông qua hội
nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an
ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý
đồ ''diễn biến hoà bình'' đối với nước ta.
III. MỘT SỐ NHIỆM VỤ CỤ THẾ TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Tiến hành rộng rãi công tác tư
tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể,
trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để đạt được nhận thức và hành
động thống nhất và nhất quán về hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó là nhu cầu vừa
bức xúc vừa cơ bản và lâu dài của nền kinh tế nước ta, nâng cao niềm tin vào
khả năng và quyết tâm của nhân dân ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Căn cứ vào Nghị quyết của Đại
hội IX, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 cũng như các quy định của
các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể
về hội nhập với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp
khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao hiệu quả và khả
năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả. Trong khi hình thành chiến
lược hội nhập, cần đặc biệt quan tâm bảo đảm sự phát triển của các ngành dịch
vụ như tài chính, ngân hàng, viễn thông... là những lĩnh vực quan trọng mà ta
còn yếu kém.
3. Chủ động và khẩn trương chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng
cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh của nước ta, ra sức phấn đấu không
ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp sự thay
đổi nhanh chóng trên thi trường thế giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm
mũi nhọn để hàng hoá và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trong
nước cũng như trên thế giới, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Tiến hành điều tra, phân loại, đánh
giá khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, từng dịch vụ từng doanh nghiệp, từng
địa phương để có biện pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường khả
năng cạnh tranh. Gắn quá trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoa
IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình hội nhập cần quan
tâm tranh thủ những tiến bộ mới của khoa học, công nghệ, không nhập khi những
công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
Đi đôi với việc nâng cao khả năng
cạnh tranh của các tác phẩm và dịch vụ, của các doanh nghiệp, cần ra sức cải
thiện môi trường kinh doanh, khả năng cạnh tranh quốc gia thông qua việc khẩn
trương đổi mới và xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật phù hợp đường lối của
Đảng, với hệ thống quốc tế, phát triển mạnh kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh công cuộc
cải cách hành chính nhằm xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch về phẩm chất, vững
mạnh về chuyên môn.
4. Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế
quản lý về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy sự hình thành,
phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hoá, dịch vụ,
lao động, khoa học - công nghệ, vốn, bất động sản...; tạo môi trường kinh doanh
thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công
cụ quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới
và củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng.
5. Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công
tác đào tạo nguồn nhân lực vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại
ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn
nhân lực theo những tiêu chuẩn chung nói trên, cần chú trọng đào tạo đội ngũ
cán bộ quản lý và kinh doanh hiểu biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ
chuyên môn, nắm bắt nhanh những chuyển biến trên thương trường quốc tế để ứng
xử kịp thời, nắm được kỹ năng thương thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên
cạnh đó cần hết sức coi trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ tay
nghề cao.
Cùng với việc đào tạo nhân lực cần
có chính sách thu hút, bảo vệ và sử dụng nhân tài; bố trí, sử dụng cán bộ đúng
với ngành nghề được đào tạo và với sở trường năng lực của từng người.
6. Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính
trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại.
Cũng như trong lĩnh vực chính trị
đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế cần giữ
vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá thị trường
và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ chức quốc tế. Các hoạt động đối ngoại song
phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia
đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có
lợi, bảo đảm lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển.
Các cơ quan đại điện ngoại giao ở
nước ngoài cẩn coi việc phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất
nước là một nhiệm vụ hàng đầu.
7. Gắn kết chủ trương hội nhập kinh
tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng ngay từ khâu hình thành kế
hoạch, xây dựng lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện, nhằm làm cho hội
nhập không ảnh hưởng tiêu cực tới nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn
xã hội; mặt khác, các cơ quan quốc phòng và an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ
trợ tạo môi trường thuận lợi cho quá trình hội nhập.
8. Tích cực tiến hành đàm phán để
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) theo các phương án và lộ trình hợp
lý, phù hợp với hoàn cảnh của nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp
và đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Gắn kết quá trình đàm phán
với quá trình đổi mới mọi mặt hoạt động kinh tế trong nước.
9. Kiện toàn Uỷ ban quốc gia về hợp
tác kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm quyền giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức,
chỉ đạo các hoạt động kinh tế quốc tế. Uỷ ban gồm hai bộ phận: một bộ phận
chuyên trách, một bộ phận kiêm nhiệm bao gồm đại diện có thẩm quyền của các bộ,
ban, ngành hữu quan.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Căn cứ Nghị quyết Đại hội cần
thứ IX của Đảng và Nghị quyết này của Bộ Chính trị Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ
đạo đề ra Chương trình hành động cụ thể, từ khâu phổ biến quán triệt nghị quyết
tới khâu hình thành Chiến lược và lộ trình hội nhập, chuyển dịch cơ cấu, sắp
xếp lại sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh, tạo dựng
môi trường kinh doanh thuận lợi đổi mới và từng bước hoàn chỉnh hệ thống các
văn bản pháp quy, đào tạo nguồn nhân lực, tiến hành đàm phán quốc tế, củng cố
và tăng cường Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế...
2. Trên cơ sở kiến nghị của Chính
phủ, Đảng đoàn Quốc hội kiến nghị với Quốc hội xem xét đưa vào Chương trình xây
dựng pháp luật để kịp thời sửa đổi, ban hành mới các văn bản pháp luật phù hợp
với quá trình hội nhập.
3. Ban cán sự đảng Chính phủ phối
hợp với Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Ban Khoa giáo Trung ương và các ban
có liên quan của Đảng, chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng xây dựng và thực
hiện kế hoạch tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi nội dung hội nhập kinh tế quốc
tế, đưa vào chương trình giảng dạy ở các trường Đảng, trường hành chính và các
trường trung học, đại học nội dung quan trọng này.
4. Các thành uỷ, thành uỷ và tổ chức
đảng ở các cấp coi hội nhập kinh tế quốc tế là một nhiệm vụ quan trọng cần được
thường xuyên quan tâm chỉ đạo, trước mắt kịp thời phổ biến rộng rãi Nghị quyết
của Bộ Chính trị cũng như chương trình của Chính phủ; xuất phát từ tình hình cụ
thể của địa phương và những nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết này, xây dựng chương
trình hành động cụ thể về hội nhập kèm theo những biện pháp thiết thực hỗ trợ
các doanh nghiệp khắc phục có hiệu quả những khó khăn yếu kém trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Là người trực tiếp tham gia và
giữ vai trò quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế phải nắm vững mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ hội nhập
kinh tế quốc tế, xây dựng kế hoạch cụ thể để hội nhập có hiệu quả chống tư tưởng
ỷ lại, dựa vào sự bảo hộ của Nhà nước, ngại cạnh tranh; tích cực chủ động đổi
mới công nghệ, cải tiến quản lý nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm,
nâng cao khả năng cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước. Các
doanh nghiệp nhà nước cần vươn lên thể hiện vai trò chủ lực trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Các cơ quan quản lý nhà nước có trách
nhiệm tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi nhất về pháp lý và thủ tục hành
chính, về cơ chế, chính sách cho các doanh nghiệp, hướng dẫn và hỗ trợ các doanh
nghiệp trong quá trình hội nhập, kể cả trong hoạt động đầu tư, hợp doanh với
các đối tác bên ngoài.
6. Ban Kinh tế Trung ương giúp Bộ
Chính trị theo dõi và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị về việc tổ chức thực hiện nghị
quyết này.
Thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế,
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm phấn đấu chủ động tạo bước chuyển
biến mới về cơ cấu kinh tế, về cơ chế quản lý, về năng lực kinh doanh của doanh
nghiệp, của mọi thành phần kinh tế, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hoá và dịch vụ nhằm làm chủ thị trường nội địa đứng vững trên thị trường
quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới và chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế của Đảng ta là nhất quán theo tinh thần phát huy cao độ nội lực, khai
thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội, đưa đất nước ta tiến nhanh, tiến mạnh và vững chắc trong thế
kỷ XXI.
|
T/M
BỘ CHÍNH TRỊ
TỔNG BÍ THƯ
Nông Đức Mạnh
|