Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐT về nhiệm vụ kinh tế - xã hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 6 tháng cuối năm 2003

Số hiệu 04/2003/NQ-HĐT
Ngày ban hành 22/07/2003
Ngày có hiệu lực 22/07/2003
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Người ký Trần Văn Khánh
Lĩnh vực Thương mại,Văn hóa - Xã hội

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
KỲ HỌP THỨ 9-KHÓA III
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

Số: 04/2003/NQ-HĐT

Vũng Tàu, ngày 22 tháng 7 năm 2003

 

NGHỊ QUYẾT

NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU 6 THÁNG CUỐI NĂM 2003

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

- Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 6 năm 1994;

- Sau khi xem xét báo cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các cơ quan hữu quan; Báo cáo thẩm định của các Ban HĐND tỉnh; kiến nghị của cử tri và ý kiến thảo luận của Đại biểu HĐND tại kỳ họp:

QUYẾT NGHỊ

- Nhất trí với báo cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh về hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2003 và chương trình công tác 6 tháng cuối năm.

- Tán thành báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh và các ngành Tư pháp về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và thực thi pháp luật 6 tháng đầu năm 2003 và một số nhiệm vụ, giải pháp cần tập trung thực hiện trong 6 tháng cuối năm.

I. Đánh giá tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh 6 tháng đầu năm 2003:

Sáu tháng đầu năm, mặc dù còn không ít khó khăn, song với nỗ lực của nhân dân, chính quyền, các ngành, các cấp nên việc thực hiện Nghị quyết của HĐND năm 2003 đã đạt kết quả đáng kể, tạo thuận lợi cho hoàn thành nhiệm vụ KT-XH năm 2003, thể hiện trong một số lĩnh vực:

Kinh tế có chuyển biến tích cực. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 12% so với cùng kỳ năm 2002. Hầu hết các ngành kinh tế đều đạt và vượt so với chỉ tiêu kế hoạch và so với cùng kỳ. Sản xuất công nghiệp tăng 12.9%. Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tăng 31%. Nông nghiệp, ngư nghiệp tiếp tục tăng trưởng khá và có sự chuyển dịch tốt về cơ cấu sản xuất. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 20.219 tỷ đồng, tăng 31% so với cùng kỳ. Tổng số vốn đầu tư thực hiện đạt 8.275 tỷ đồng, tăng 59,4% so với cùng kỳ năm trước (trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 368 triệu USD). Thu hút đầu tư với tổng số vốn đăng ký trong nước là 355,7 tỷ đồng và đầu tư nước ngoài 86 triệu USD.

Nhiều chỉ tiêu về văn hóa, xã hội đạt và vượt kế hoạch. Giáo dục tiếp tục phát triển, chất lượng giáo dục - đào tạo có tiến bộ, chủ trương xã hội hóa tiếp tục được triển khai thực hiện. Công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho nhân dân được quan tâm, không để xảy ra dịch bệnh. Mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân từng bước được nâng cao. Hệ thống thông tin liên lạc, đường giao thông, trạm y tế, trường học từng bước được mở rộng, cơ bản đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Số hộ nông thôn được dùng điện sinh hoạt, nước sạch tăng. An ninh quốc phòng được giữ vững, đảm bảo cho môi trường đầu tư và thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở địa phương. Chương trình 4 giảm được triển khai thực hiện đạt kết quả bước đầu khả quan. Các ngành Tư pháp đã có sự phối hợp tốt hơn, có cố gắng thực hiện nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết 8 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 10 của Thủ tướng Chính phủ về cải cách công tác Tư pháp.

Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của một số lĩnh vực còn thấp so với chỉ tiêu kế hoạch cả năm. Tiến độ sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước còn chậm. Các khoản thu ngân sách như thu từ các doanh nghiệp địa phương, lệ phí trước bạ đạt thấp; chi ngân sách cho đầu tư phát triển thấp. Các nhiệm vụ xã hội như giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình thương chưa đạt. Tình hình lấn chiếm đất đai, xây dựng trái phép và không phép vẫn diễn ra nghiêm trọng; một số vụ vi phạm nhưng đến nay vẫn chưa được xử lý dứt điểm. Môi trường cảnh quan bị xâm hại ở nhiều nơi. Các hạn chế phát triển hạ tầng khu công nghiệp, về xúc tiến đầu tư, tiến độ triển khai các công trình dự án, vấn đề giải phóng mặt bằng, quản lý đầu tư xây dựng, quản lý quy hoạch, quản lý sử dụng đất đai, quản lý đô thị... tuy đã được đề cập trước đây nhưng chậm được khắc phục. Trật tự kỷ cương chuyển biến chậm; kỷ luật hành chính trong xử lý một số vụ việc chưa nghiêm.

II. Một số nhiệm vụ và giải pháp cần tập trung thực hiện trong 6 tháng cuối năm 2003.

HĐND tỉnh cơ bản đã nhất trí với các nhiệm vụ, giải pháp được UBND tỉnh đề ra cho 6 tháng cuối năm 2003 và nhấn mạnh một số vấn đề sau đây:

1. Trên cơ sở những ý kiến đóng góp của cử tri, của đại biểu HĐND, ý kiến thẩm tra của các Ban HĐND, UBND tỉnh cần có kế hoạch tổ chức thực hiện, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2003 và chuẩn bị xây dựng kế hoạch năm 2004.

Kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện 13 chương trình và 4 công trình trọng điểm của kế hoạch 2001 - 2005 đạt yêu cầu, tiến độ đề ra. Cần có giải pháp tập trung, đồng bộ để tạo chuyển biến trên một số lĩnh vực như: tăng nhanh tỷ trọng chăn nuôi, phát triển nuôi trồng thủy sản, phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp địa phương...

Hoàn thành đề án phát triển kinh tế xã hội của huyện Côn Đảo trình Chính phủ phê duyệt.

2. Triển khai thực hiện kiểm tra và có kế hoạch bàn giao 2 KCN Đông Xuyên và Phú Mỹ 1. Tập trung giải quyết các vấn đề về tổ chức liên quan KCN Đông Xuyên và Phú Mỹ I, hỗ trợ nguồn vốn đẩy nhanh tiến độ thi công những hạng mục hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào ở 2 KCN này.

Đưa trung tâm xúc tiến đầu tư vào hoạt động; phát huy vai trò trong việc nghiên cứu, quảng bá, xúc tiến thương mại, đầu tư. Hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của tỉnh.

Hoàn chỉnh việc xây dựng quy chế đấu giá quyền sử dụng đất.

Sớm xác định địa điểm xây dựng khu vực chế biến hải sản tập trung để tiến hành quy hoạch, triển khai dự án.

3. Cần có chương trình và biện pháp cụ thể thực hiện triệt để năm “Lập lại kỷ cương và tăng cường công tác quản lý đô thị”.

Kiên quyết chấn chỉnh kỷ luật hành chính. Tổ chức tốt việc kiểm tra các ngành, các cấp trong việc tổ chức thực hiện. Xử lý các đơn vị, cá nhân không chấp hành nghiêm các văn bản hành chính của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Xây dựng một số quy định, quy chế cụ thể xử lý các tình huống trong việc chấp hành kỷ luật hành chính. Tổ chức kiểm tra hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước về thẩm định các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, cấp phép xây dựng, sửa chữa nhà ở, đo đạc đất đai có liên quan đến việc triển khai các dự án và thành lập doanh nghiệp.

Rà soát, điều chỉnh và phê duyệt quy hoạch và sớm công bố cho nhân dân biết. Kiên quyết ngăn chặn tình trạng lấn chiếm, mua bán đất đai và xây dựng trái phép, không phép. Khẩn trương xây dựng các khu tái định cư ổn định đời sống các hộ phải di dời để giải phóng mặt bằng. Quản lý tốt hơn hộ tịch, hộ khẩu và trật tự an toàn đô thị. Có kế hoạch cụ thể, từng bước khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và rác thải đô thị; xử lý nghiêm các trường hợp khai thác đất, đá trái phép xâm hại cảnh quan môi trường.

UBND tỉnh chỉ đạo UBND thành phố Vũng Tàu và Thị xã Bà Rịa khẩn trương lập kế hoạch bổ sung quản lý chỉnh trang đô thị với những nội dung cụ thể.

UBND tỉnh kiểm tra ngay và xử lý việc xâm hại Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu, khẩn trương xem xét lập dự án xây dựng hàng rào để bảo vệ 4.500 ha rừng còn lại.

4. UBND tỉnh kịp thời soát xét, điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản để bảo đảm triển khai đúng tiến độ và giải ngân hết các nguồn vốn đã bố trí; đẩy mạnh công tác điều hành xây dựng cơ bản, nhất là các công trình thi công dang dở của năm trước. Có biện pháp ràng buộc trách nhiệm các đơn vị thi công, các đơn vị tư vấn giám sát nhằm đạt tiến độ, đảm bảo chất lượng các công trình xây dựng. Xử lý ngay những vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình: đường Trần Phú, đường ven biển Vũng Tàu - Long Hải - Bình Châu, đường Phước Tân - Châu Pha, công viên hồ Bàu Sen.

[...]